Ngân hàng lao đao khi giá bất động sản lao dốc
Theo ông Adam Slater, chuyên gia kinh tế của Oxford Economics, trong các đợt suy thoái trước đây, tổn thất cho vay bất động sản thương mại là “nặng nề” và có những dấu hiệu đáng lo ngại rằng xu hướng đó có thể lặp lại lần nữa trong thời kỳ suy thoái do coronavirus gây ra. Trong trường hợp xấu nhất, những khoản lỗ cho vay này sẽ “làm xói mòn” vốn ngân hàng. Bất động sản thương mại giảm giá thường dẫn đến thiệt hại lớn cho các ngân hàng. Việc xóa sổ các khoản vay (bất động sản thương mại) đã góp phần lớn vào tổn thất tổng thể của ngân hàng trong hai đợt suy thoái lớn vừa qua. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng tài chính lớn năm 2008, những khoản lỗ cho vay như vậy chiếm từ 25% đến 30% tổng số khoản nợ phải xóa ở Hoa Kỳ.
Ảnh minh họa |
Lần này những rủi ro đó có vẻ xảy ra cao nhất ở Mỹ, Úc và các khu vực của châu Á như Hồng Kông và Hàn Quốc. Ở những nền kinh tế này, tăng trưởng cho vay ở mức cao, với mức dư nợ cho vay bất động sản là “đáng kể” nhưng giá bất động sản thương mại lại tụt dốc thảm hại, đặc biệt là ở Hồng Kông.
Tại Singapore, giá thuê văn phòng của quý III giảm mạnh nhất trong 11 năm qua. Chỉ số về giá của công ty bất động sản thương mại toàn cầu dựa trên bảy thị trường lớn cho thấy chúng đã giảm 6% so với năm ngoái.
Các chuyên gia kinh tế của Oxford Economics đã phân tích số liệu trên 13 nền kinh tế lớn và phát hiện ra rằng việc xóa sổ 5% các khoản vay sẽ tương đương với khoản lỗ từ 1% đến 10% vốn cấp 1 của các ngân hàng, nguồn vốn chính của họ bao gồm vốn chủ sở hữu và thu nhập.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư trái phiếu cũng có thể gặp rủi ro. Tại Hoa Kỳ, khoảng một nửa số tiền cho vay của lĩnh vực này không được thực hiện thông qua các khoản vay ngân hàng và bao gồm cả việc phát hành trái phiếu trong lĩnh vực này. Ở các khu vực châu Âu và châu Á, tỷ lệ vay qua khu vực phi ngân hàng đã tăng lên 25% hoặc hơn trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, các ngân hàng hiện nay đang ở trong tình trạng tốt hơn so với một thập kỷ trước. Tỷ lệ vốn và tỷ lệ đòn bẩy của các ngân hàng hiện đang lớn khoảng gấp đôi so với một thập kỷ trước. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, các cải cách đã được đưa ra để giảm thiểu rủi ro và cải thiện khả năng phục hồi của khu vực ngân hàng toàn cầu, bằng cách duy trì mức vốn dự trữ và tỷ lệ đòn bẩy nhất định.