Nông sản tăng giá, nhà nông vẫn khó
Tín hiệu vui cho cam Vinh | |
Chi phí logistics đắt đỏ, nông sản Việt gặp khó | |
Truy xuất nguồn gốc hàng nông sản: Lợi cả đôi đường |
Ông Nguyễn Nam Hải, Tổng thư ký Hiệp hội Cà phê-Ca cao Việt Nam (Vicofa) cho biết, hiện nay tại các tỉnh Tây Nguyên, cà phê bắt đầu vụ thu hoạch, áp lực bán chưa cao. Giá cà phê nhân xô tại các vùng trọng điểm Tây Nguyên đứng ở mức 31.200 đồng – 31.700 đồng/kg. So với tháng 10/2020, mức giá này giảm nhẹ, không đáng kể, chỉ dưới 1%. Tuy nhiên, vấn đề khiến nhà nông và doanh nghiệp Việt lo lắng chính là xuất khẩu cà phê Việt Nam sang đa số các thị trường đều sụt giảm so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, giảm mạnh là ở thị trường Hoa Kỳ, tới 21% cả về lượng và kim ngạch, Italia giảm 19%, Nga giảm 43%.... Nếu tính chung cả 11 tháng/20202, thì Đức, Đông Nam Á, Mỹ là ba thị trường tiêu thụ cà phê lớn nhất của Việt Nam với thị phần lần lượt là 13,1%, 12,6% và 9,3%.
Sản xuất nông sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang gặp nhiều khó khăn |
Theo Tổ chức Cà phê quốc tế (ICO) dự báo, xuất khẩu cà phê toàn cầu trong từ đầu quý IV/2020 (bắt đầu niên vụ 2020/2021) tăng 3,2% so với cùng kỳ năm 2019. Nhưng trên thị trường thế giới, giá cà phê lại rất nhạy cảm với tình hình dịch bệnh Covid-19 và một số nguyên nhân khác, nên thời gian tới, sẽ còn khó khăn với những biến động thất thường. Ở trong nước, người trồng cà phê Việt chỉ có một lợi thế là sức ép bán sản phẩm đầu vụ thu hoạch không mạnh như các năm trước, giá bán cà phê ổn định, tuy không tăng như kỳ vọng.
Đối với mặt hàng đường, trong nhiều tháng liên tiếp, từ tháng 4/2020 đến nay, giá đường thế giới tăng liên tục và hiện đứng ở mức cao. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo, tiêu thụ đường toàn cầu trong niên vụ 2020/2021 tăng 6,2 triệu tấn so với vụ trước (lên gần 177 triệu tấn). Cụ thể, tiêu thụ đường ở Mỹ và Mexico tăng nhẹ lên tương ứng 11,1 triệu tấn và 4,38 triệu tấn. Trung Quốc, châu Âu (EU) và Brazil được dự đoán mức tiêu thụ không thay đổi. Ở Ấn Độ, Nga, Pakistan và Ai Cập, tiêu thụ cũng tăng từ 3,3 tấn – 30 tấn. Các nước còn lại như Indonesia, Bangladesh, Malaysia, Hàn Quốc, Algeria và UAE cũng được dự đoán là nhu cầu tiêu thụ đường sẽ tăng trong vụ 2020/2021. Nguyên nhân là do dịch bệnh đã làm gián đoạn nguồn cung toàn cầu, và giá đường sẽ tăng.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn Lộc, Quyền Tổng thư ký Hiệp hội Mía đường Việt Nam cho biết, Việt Nam hiện nay đang thực hiện cam kết theo Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) đối với ngành đường, không giới hạn lượng đường nhập khẩu từ các nước ASEAN và áp dụng mức thuế nhập khẩu 5%. Điều này khiến tổng lượng đường mía nhập khẩu vào Việt Nam tăng nhanh, đạt xấp xỉ 1,3 triệu tấn trong 11 tháng/2020. Giá đường nhập khẩu rất thấp, gây khó khăn đối với các doanh nghiệp sản xuất đường và hộ nông dân trồng mía trên cả nước.
Trong 11 tháng/2020 lượng đường nhập khẩu vào Việt Nam đến 884.285 tấn, số lượng đường nhập khẩu lớn hơn lượng đường sản xuất từ mía trong nước. Trong đó, lượng đường mía nhập khẩu trực tiếp từ Thái Lan vào Việt Nam chiếm tỷ lệ 87,67%. Lượng đường nhập khẩu từ các nước Malaysia, Campuchia, Indonesia, Myanmar cũng gia tăng. Tác động của đường giá rẻ tràn vào thị trường trong nước, khiến giá đường thị trường nội địa của Việt Nam đã giảm xuống mức rất thấp, ảnh hưởng đến giá mía của Việt Nam cũng kéo thấp, khiến nông dân trồng mía lỗ vốn, bỏ trồng mía. Với doanh nghiệp sản xuất đường trước đây, cả nước có 40 nhà máy mía đường hoạt động, đến nay (niên vụ 2019 – 2020) chỉ còn 29 nhà máy mía hoạt động. Dự báo niên vụ 2020 – 2021 tiếp tục khó khăn với ngành mía đường Việt Nam, khi chỉ còn 25 nhà máy đường hoạt động. So sánh với các nước sản xuất mía đường trong ASEAN như Thái Lan, Philippines, Indonesia vẫn áp dụng các biện pháp quản lý để bảo vệ ngành mía đường trong nước, thì ngành mía đường Việt Nam thiệt hơn và không tận dụng được cơ hội giá đường thế giới tăng.
Tương tự, hạt điều là mặt hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam, trong suốt 15 năm qua, ngành điều Việt Nam đã giữ vững vị trí số 1 thế giới về xuất khẩu nhân điều và hoàn toàn làm chủ công nghệ và thiết bị chế biến. Đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu nhân điều đến hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm khoảng 80% lượng điều nhân xuất khẩu trên thế giới. Nhưng khâu chế biến phát triển mạnh, thị trường xuất khẩu rộng toàn cầu và hạt điều Việt Nam có chất lượng tốt vào tốp đầu thế giới, nhưng nguồn nguyên liệu chỉ đáp ứng một phần rất nhỏ cho chế biến, nhà nông trồng điều luôn khó khăn.
Nguyên do ngành chế biến hạt điều phát triển quá nhanh, trong khi sản xuất nguyên liệu chậm. Diện tích trồng cây điều bị thu hẹp do đô thị hóa, nhiều vùng nguyên liệu lớn như Bình Dương không còn cây điều, vì nhà nông trồng cây khác có hiệu quả kinh tế cao hơn. Năng suất bình quân của điều khoảng 2 tấn/ha, dù bán với giá tốt nhất 35.000 đồng/kg, thì nông dân chỉ được 70 triệu đồng/năm. Trong khi trồng cây ăn trái khác (sầu riêng, bưởi, măng cụt…) đạt doanh thu từ vài trăm triệu đến hàng tỷ đồng. Hiện nay, chỉ còn một số tỉnh trồng cây điều như Đắk Nông, Bình Thuận, Đắk Lắk, nên doanh nghiệp chế biến điều phải nhập đến 85% hạt điều thô về chế biến. Trong chuỗi giá trị điều toàn cầu, Việt Nam chủ yếu vẫn xuất khẩu điều nhân sơ chế với giá 10 USD/kg, trong khi nhân điều thành phẩm bán ở siêu thị các nước có giá 30 USD/kg.