“Nước” có thông, “Nông” mới bền
Cơ chế xác định giá đang là vướng mắc lớn nhất
Theo Thứ trưởng Bộ NN&PTNN Nguyễn Hoàng Hiệp, ngành nông nghiệp Việt Nam có được thành quả như hiện nay có đóng góp rất quan trọng của hạ tầng nông nghiệp. “Đầu vào quan trọng của nông nghiệp là đất và nước. Vì vậy, nếu sử dụng hiệu quả nước thì chắc chắn nông nghiệp Việt Nam sẽ phát triển tốt hơn”, ông Nguyễn Hoàng Hiệp nhấn mạnh. Cùng quan điểm, ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất của biến đổi khí hậu (BĐKH) và BĐKH có tác động sâu sắc đến ngành nông nghiệp. Làm sao khuyến khích sử dụng hiệu quả tài nguyên nước, giảm lãng phí và thúc đẩy quản lý bền vững hệ thống thủy lợi là vô cùng cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài của ngành nông nghiệp và sinh kế của hàng triệu người dân nói riêng, cho tăng trưởng và phát triển bền vững của Việt Nam nói chung, qua đó góp phần đạt được mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao vào năm 2045.
Nhưng bản thân các trụ cột trong hạ tầng ngành nông nghiệp, đặc biệt là hệ thống công trình thủy lợi, yếu tố quan trọng của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội đang gặp phải những vấn đề nan giải lớn đã tồn tại từ lâu và cần sớm giải quyết. Trong đó, nổi lên là vấn đề giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi. Những năm qua, hệ thống công trình thủy lợi luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt từ Đảng và Nhà nước. Công tác quản lý dịch vụ thủy lợi theo hướng hiệu quả và bền vững đã và đang trở thành tâm điểm, với nhiều giải pháp, chính sách được ban hành và thực hiện để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và cạnh tranh giữa các ngành kinh tế sử dụng nước.
Kể từ khi Luật Thuỷ lợi và các văn bản liên quan được ban hành, chính sách giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi, được cụ thể hóa trong Nghị định 96/2018/NĐ-CP, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng từ cơ chế phí trước đó sang cơ chế giá. Mục tiêu chính là tạo hành lang pháp lý để xây dựng và áp dụng giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi, cùng cơ chế hỗ trợ, hướng đến giảm chi phí sản xuất nông nghiệp cho người dân; đồng thời duy trì tính bền vững của ngành thủy lợi, tăng tính cạnh tranh cho ngành nông nghiệp.
“Việc sửa đổi Nghị định 96/2018/NĐ-CP cần hướng tới rõ ràng và đơn giản trong phương pháp xác định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi, đồng thời đảm bảo tính đúng đủ của chi phí trong quản lý vận hành. Cơ chế hỗ trợ tiền sử dụng nước cũng cần được đơn giản hóa, đảm bảo đúng đối tượng và khuyến khích nâng cao hiệu quả quản lý khai thác công trình thủy lợi để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước”, theo khuyến nghị của Nhóm nghiên cứu tư vấn ADB. |
Sau gần 6 năm thực hiện Nghị định 96, mặc dù hầu hết các địa phương đã xây dựng phương án giá sản phẩm dịch vụ, song vẫn còn những hạn chế đáng kể. Phương pháp định giá chưa đầy đủ, cách xác định chi phí chưa thống nhất đang tạo ra khó khăn trong tính toán và không đảm bảo đúng nguyên tắc định giá. Hiệu quả thực hiện giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi vẫn chưa cao. Cùng với đó, quy trình và thủ tục ban hành giá dịch vụ thủy lợi cũng như chính sách hỗ trợ vẫn phức tạp, tiềm ẩn nhiều rủi ro về mặt pháp lý cho các cơ quan thực hiện. Việc hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị quản lý, khai thác công trình thủy lợi làm cho người sử dụng nước có nhận thức nước là “miễn phí”. Các đơn vị cung cấp dịch vụ ít có động lực để nâng cao chất lượng dịch vụ cũng như hiệu quả kinh doanh, nhất là khi giá dịch vụ chưa đảm bảo bù đắp đủ chi phí.
Theo thống kê, từ năm 2012 đến nay, mức hỗ trợ thủy lợi phí giữ nguyên không thay đổi trong khi các chi phí đầu vào gia tăng, CPI tăng… gây khó khăn rất lớn cho ngành thủy lợi. Nguồn thu của các công ty thủy nông - ngoại trừ một số đơn vị có nguồn thu khác từ cấp nước sinh hoạt, phát điện cho thủy điện - rất thấp, chi phí tối thiểu cho lương, bảo trì sửa chữa hàng năm không đảm bảo, đời sống của cán bộ làm công tác thủy nông rất khó khăn.
Cần sớm sửa đổi theo hướng “tính đúng, tính đủ”
Thứ trưởng Bộ Tài chính Lê Tấn Cận cho biết, thủy lợi là vấn đề chuyên ngành đặc thù, trong khi các sản phẩm dịch vụ thủy lợi theo Luật Thủy lợi khá đa dạng, phục vụ đa mục tiêu. Việc định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi hiện nay tại Việt Nam được tiếp cận theo phương thức chi phí, bao gồm chi phí quản lý, vận hành, bảo trì, khấu hao… Đây là những vấn đề hiện nay còn nhiều băn khoăn, đặc biệt là việc tính toán sao cho tính đúng, tính đủ các chi phí vào giá dịch vụ thủy lợi. Hiện nay, Bộ Tài chính cùng Bộ NN&PTNN đang cân nhắc, tính toán từ cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật của ngành nông nghiệp, các địa phương.
Thứ trưởng Lê Tấn Cận cho biết, Luật Giá 2023 đã được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2023 và có hiệu lực thi hành từ 1/7/2024, trong đó thẩm quyền định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi đã được sửa đổi, bổ sung căn bản so với quy định tại Luật Thủy lợi. Theo đó, Bộ Tài chính chỉ định giá tối đa khung giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ NN&PTNN, không định giá tối đa khung giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của các địa phương. UBND cấp tỉnh tự định giá cụ thể sản phẩm dịch vụ thủy lợi thuộc thẩm quyền quản lý của mình.
Do thẩm quyền định giá sản phẩm dịch vụ thủy lợi đã được sửa đổi bổ sung theo Luật Giá 2023 nên về trình tự định giá dịch vụ thủy lợi cũng cần phải được sửa đổi bổ sung cho phù hợp, gắn với thẩm quyền của các cấp và trách nhiệm phối hợp của các cơ quan liên quan. Ngoài ra, một số nội dung về nguyên tắc, căn cứ và phương pháp định giá tại Luật Giá 2023 đã có sửa đổi bổ sung so với Luật Giá 2012, vì vậy cũng cần phải sửa đổi cho phù hợp.
Hiện nay, việc thực hiện Nghị định 96 đang tồn tại nhiều khó khăn vướng mắc, một số nội dung còn thiếu, chưa hoặc không còn phù hợp với thực tế. Để khắc phục tồn tại hạn chế và đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật Giá 2023, Thứ trưởng Lê Tấn Cận cho biết, trong thời gian tới, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ NN&PTNN sớm tháo gỡ và sửa đổi kịp thời những vướng mắc về giá dịch vụ thủy lợi.
Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam nhấn mạnh, việc có được cơ chế định giá và tính giá dịch vụ thủy lợi phù hợp sẽ góp phần ứng phó với BĐKH, khuyến khích áp dụng các kỹ thuật canh tác nông nghiệp thông minh, hiệu quả, thích ứng với khí hậu, qua đó góp phần mang lại tương lai bền vững hơn cho nông nghiệp cũng như mang lại một tương lai bền vững hơn cho tất cả mọi người.