Sáu bài học lớn khi Việt Nam tiếp nhận ODA
Nhiều địa phương vẫn nghĩ ODA là cho không, nên rất ung dung | |
Tập trung nguồn lực cho lĩnh vực đột phá | |
Vốn để kho lo tăng trưởng |
Giai đoạn chuyển sang nước có thu nhập trung bình (MIC) là một thời điểm quan trọng trong chiến lược phát triển của một quốc gia và làm thay đổi căn bản mối quan hệ giữa nước nhận viện trợ và các nhà tài trợ. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn vay của một số nước châu Á, như Hàn Quốc cho thấy ODA có thể đóng vai trò tích cực trong quá trình công nghiệp hóa, nhất là khi dòng vốn ODA đủ lớn để tạo ra sự cải thiện đáng kể trong cán cân thanh toán một cách chủ động.
Ảnh minh họa |
Nhìn lại từ thời điểm ký Hiệp định đình chiến (tháng 7/1953), Hàn Quốc là một trong những nước nghèo nhất thế giới, với một hệ thống cơ sở hạ tầng (CSHT) bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, nạn tham nhũng tràn lan và nền nông nghiệp đình đốn. Thế nhưng 30 năm sau đó, Hàn Quốc đã trở thành trường hợp chuyển đổi kinh tế nhanh và thành công nhất trên thế giới, trong đó ODA đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự thần kỳ Hàn Quốc.
Từ năm 1945 đến 1999, Hàn Quốc đã tiếp nhận 44 tỷ USD vốn ODA, bao gồm 7 tỷ USD viện trợ không hoàn lại và 37 tỷ USD vốn vay đầu tư vào những lĩnh vực thúc đẩy trực tiếp tăng trưởng là CSHT kinh tế và nông nghiệp. Các cơ quan chính phủ cho phép gắn chặt các dự án ODA vào kế hoạch phát triển kinh tế và yêu cầu một quy trình đánh giá độc lập và chặt chẽ đối với các dự án đầu tư công, trong đó có cả dự án ODA.
Nhìn về Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, dù Việt Nam đã tiếp cận được một dòng vốn ODA lớn và tương đối ổn định từ cộng đồng các nhà tài trợ, tuy nhiên, tỷ trọng của ODA trong tổng thu nhập quốc dân đang giảm dần và còn chiếm chưa đến 2% GDP. Xuất khẩu tăng mạnh trong những năm gần đây đã góp phần giảm bớt áp lực phải dựa vào vốn ODA để có ngoại tệ. Nhưng là một nước có quy mô nhập khẩu lớn, Việt Nam vẫn đứng trước nguy cơ tiềm ẩn về rủi ro cán cân thanh toán. Chính vì thế, việc có định hướng rõ ràng và có tính chiến lược cho việc thu hút và sử dụng vốn ODA, vay ưu đãi trong thời gian tới là cực kỳ quan trọng đối với nước ta.
Bộ Kế hoạch - Đầu tư đề xuất 6 sáu bài học quan trọng, có thể coi đó như những nguyên tắc chiến lược để định hướng cho việc thu hút và sử dụng vốn vay nước ngoài ở nước ta. Trong đó, lợi ích lớn nhất của vốn vay nước ngoài là cải thiện cán cân thanh toán. Vốn vay nước ngoài có thể cung cấp những khoản vay dài hạn để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các hàng hóa đầu tư, giảm áp lực lên cán cân vãng lai trong ngắn và trung hạn, cho đến khi năng lực sản xuất nội địa được củng cố. Các nước MIC nên tránh sử dụng vốn vay nước ngoài để tài trợ cho các nhu cầu có thể chi tiêu bằng đồng nội tệ, vì điều đó sẽ làm tăng dư nợ công, nhưng không cải thiện được năng lực trả nợ của quốc gia.
Thứ hai, vốn vay nước ngoài cần ưu tiên sử dụng cho các dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng, nhất là những loại dự án có thể làm tăng khả năng tạo nguồn thu ngoại tệ trong trung và dài hạn, trong đó ưu tiên các dự án CSHT hay CSHT phát triển nông nghiệp nông thôn.
Thứ ba, vốn vay nước ngoài chỉ nên tập trung vào một vài lĩnh vực chủ chốt, đặt dưới sự điều phối tập trung, thống nhất của cơ quan kế hoạch và sự thẩm định, đánh giá dự án một cách chặt chẽ, khách quan, minh bạch sẽ là những yếu tố căn bản để tăng cường hiệu quả sử dụng vốn vay nước ngoài.
Thứ tư, cần xây dựng bộ tiêu chí đánh giá, xếp hạng dự án và áp dụng một cách nhất quán trong suốt quy trình quản lý dự án vay vốn nước ngoài, đánh giá nhiều dự án một lúc thay vì từng dự án riêng lẻ. Cùng với đó là các giải pháp tránh sự cắt giảm đột ngột vốn vay nước ngoài, qua đó giảm xáo trộn trong trung hạn. Và để đạt được những mục tiêu này trong bối cảnh hợp tác phát triển quốc tế đang có những thay đổi rất nhanh.
Đề xuất cuối cùng chính là sự linh hoạt, sáng tạo và chủ động trong việc đa dạng hóa, đa phương hóa phương thức huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Ngay bản thân các nước trong khu vực cũng đã điều chỉnh chiến lược của mình theo nguyên tắc chủ đạo là sử dụng vốn nước ngoài như một đòn bẩy để thúc đẩy đầu tư tư nhân, chứ không còn là nguồn vốn đầu tư phát triển chính của quốc gia như trước đây. Bên cạnh đó, cần tạo sự cạnh tranh giữa các nhà tài trợ trong việc cung cấp vốn thực hiện các dự án theo hướng minh bạch, cạnh tranh cao, khuyến khích DN nước chủ nhà tham gia.