Thị trường điện toán đám mây đang bùng nổ
Cơ sở hạ tầng số quan trọng
Không nằm ngoài xu thế chuyển đổi số toàn cầu hiện nay, Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cũng đã bắt đầu quá trình chuyển đổi số nền kinh tế trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Nghị quyết 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN 4.0 và Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” được ban hành.
Ảnh minh họa |
Trong chuyển đổi số và phát triển nền kinh tế số, điện toán đám mây được coi là cơ sở hạ tầng số quan trọng, có tác động mạnh mẽ đến quá trình chuyển đổi số của mỗi quốc gia và doanh nghiệp. Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã xác định, nền tảng điện toán đám mây là hạ tầng viễn thông thế hệ mới trong vòng 5 - 10 năm tới và sẽ là định hướng chủ lực của quốc gia cần tập trung phát triển.
Điện toán đám mây được hiểu là việc cung cấp, phân phối các tài nguyên CNTT theo nhu cầu thông qua Internet với chính sách thanh toán theo mức sử dụng, nhờ đó người dùng có thể cắt giảm chi phí hoạt động, vận hành cơ sở hạ tầng hiệu quả với sự linh hoạt mở rộng/thu hẹp quy mô khi nhu cầu thay đổi. Điều này tương tự như cách người tiêu dùng bật công tắc điện tại nhà. Theo đó, họ có thể linh hoạt bật - tắt bóng đèn tại khu vực cần thiết thay vì tiêu tốn năng lượng phát sáng cho toàn bộ căn nhà.
Theo nghiên cứu của Gartner, chi tiêu của người sử dụng cuối đối với dịch vụ điện toán đám mây công cộng trên toàn thế giới năm 2020 là 257,5 tỷ USD. Con số này vào năm 2022 dự báo tăng khoảng 40% đạt 362,2 tỷ USD. Với Việt Nam, theo thông tin từ Bộ Thông tin và Truyền thông, thị trường điện toán đám mây Việt Nam năm 2020 đạt khoảng 3.200 tỷ đồng (tương đương 133 triệu USD).
Tại Việt Nam, điện toán đám mây hiện đang được ứng dụng kết hợp cùng các nền tảng công nghệ khác như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn (big data)… trong quá trình xây dựng nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia (NGSP) - thành phần trung gian kết nối các nền tảng tích hợp, chia sẻ của các bộ, ngành và địa phương.
Hợp tác tạo nên sức mạnh
Một nghiên cứu của Viettel IDC cho thấy, mức độ quan tâm và khả năng chuyển đổi của nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên rất nhanh (hiện lên đến hơn 50%). Tỷ lệ này của các doanh nghiệp lớn thậm chí còn cao hơn, ở mức 60% - 80%. Đối với cơ quan nhà nước thì tỷ lệ này dao động trong khoảng 40% đến 50%.
Có thể thấy, thị trường điện toán đám mây Việt Nam trong thời gian tới là rất tiềm năng.
Tại thị trường Việt Nam, nhà cung cấp dịch vụ nội địa chỉ chiếm 20% thị phần, 80% thị phần còn lại thuộc về các nhà cung cấp nước ngoài. Mặc dù số lượng nhà cung cấp dịch vụ nội địa xấp xỉ con số 50 nhưng chưa đến 10% số doanh nghiệp này có thể cung cấp đầy đủ các dịch vụ từ IaaS, PaaS đến SaaS để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Do vậy, để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa, các nhà cung cấp nhỏ lẻ cần hợp tác để tạo nên sức mạnh lớn, từ số lượng kỹ sư, con người, hạ tầng đến chất lượng sản phẩm.
Điện toán đám mây và thị trường mở
Hiện đã có 14 quốc gia ban hành chiến lược và chính sách về điện toán đám mây, riêng khu vực Đông Nam Á, mới chỉ có Philippines và Singapore triển khai chiến lược này. Và xu hướng thấy rõ là những quốc gia có trình độ phát triển kinh tế càng cao thì càng ưu tiên ứng dụng công nghệ số trong vận hành Chính phủ.
Tại Mỹ, dựa trên chiến lược điện toán đám mây, nhiều cơ quan liên bang đã sử dụng công nghệ này một cách hiệu quả. Ví dụ, Cơ quan dịch vụ chung (GSA) bắt đầu sử dụng công nghệ điện toán đám mây cho cổng thông tin điện tử của Chính phủ điện tử (USA.gov) từ năm 2009, chi phí hạ tầng từ khi áp dụng điện toán đám mây đã giảm tới 90%.
Đối với Vương quốc Anh, điện toán đám mây được sử dụng trong việc tạo ra một kho ứng dụng Chính phủ giống như một cổng trực tuyến và cung cấp một thị trường mở với các dịch vụ có thể được mua sắm, sử dụng, xem xét và tái sử dụng trong khu vực công. Đến năm 2013, Chính phủ Anh đưa ra chính sách ưu tiên điện toán đám mây.
Việt Nam mặc dù đã có định hướng chung để chuyển đổi số nhưng chúng ta lại chưa có một chiến lược ngành hay chính sách để ưu tiên công nghệ điện toán đám mây với các tiêu chuẩn, yêu cầu cụ thể. Do vậy, ở cấp độ quốc gia, chiến lược dữ liệu quốc gia cần sớm được ban hành làm nền tảng xây dựng Chiến lược điện toán đám mây Chính phủ cũng như triển khai ứng dụng các công nghệ kỹ thuật số mới nhằm phản ứng nhanh với những thay đổi trên thế giới, tận dụng công nghệ để phát triển và thực hiện mục tiêu Chính phủ kiến tạo. Ở cấp độ doanh nghiệp, việc nhận thức đúng về tầm quan trọng, từ đó có chiến lược sử dụng tối ưu công nghệ điện toán đám mây là mấu chốt cho sự thành công của chuyển đổi số của Việt Nam.