Thị trường hàng hóa: Đà giảm giá chiếm ưu thế

09:22 | 15/11/2022

Theo Sở giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV), kết thúc ngày giao dịch hôm qua (14/11), chỉ số MXV- Index giảm nhẹ 0,4% xuống mức 2.527 điểm. Sắc đỏ chiếm ưu thế trên cả 3 nhóm Nông sản, Nguyên liệu công nghiệp và Năng lượng. Trong khi đó, Kim loại là nhóm mặt hàng duy nhất vẫn đón nhận lực mua áp đảo.

thi truong hang hoa da giam gia chiem uu the
 

Dòng tiền đầu tư trong nước tiếp tục ghi nhận mức gia tăng đáng kể. Đóng cửa, giá trị giao dịch toàn Sở tăng gần 25% so với ngày trước đó, đạt mức 6.700 tỷ đồng. Trong đó, tính riêng thị trường năng lượng, dòng tiền chiếm đến gần 50% tổng giá trị giao dịch kể trên.

Giá dầu giảm mạnh

Giá dầu giảm trở lại trong phiên giao dịch đầu tuần, sau khi Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hạ dự báo nhu cầu tiêu thụ dầu thế giới trong năm 2022 và 2023.

Kết thúc phiên giao dịch ngày 15/11, giá dầu WTI giảm 3,47% xuống 85,87 USD/thùng trong khi giá dầu Brent giảm 2,97% xuống 93,14 USD/thùng. Trước đó trong phiên sáng, đã có lúc giá dầu WTI tiệm cận mức 90 USD/thùng.

thi truong hang hoa da giam gia chiem uu the
 

Việc Trung Quốc đưa ra kế hoạch để trợ giúp ngành bất động sản - “đầu tầu” tăng trưởng cho nền kinh tế nước này - khiến giới đầu tư tin rằng nền kinh tế thứ hai thế giới đang lấy mục tiêu tăng trưởng làm trọng tâm.

Nếu kinh tế Trung Quốc phục hồi sẽ thúc đẩy tiêu thụ các mặt hàng trong nhóm năng lượng, kim loại gia tăng, nâng đỡ giá.

Tuy vậy, lực bán quay trở lại thị trường trong phiên tối khi thông tin số ca nhiễm Covid-19 gia tăng tại Trung Quốc tạo ra lo ngại về nhu cầu tiêu thụ dầu sẽ sụt giảm trong ngắn hạn. Vì chưa có quyết định thay đổi về chính sách cụ thể từ Trung ương, các quan chức địa phương tại Trung Quốc vẫn đang thực hiện quyết liệt các biện pháp kiểm soát dịch nghiêm ngặt.

Trong khi đó, trong báo cáo thị trường dầu tháng 11 mới nhất, OPEC đã cắt giảm dự báo tiêu thụ nhiên liệu toàn cầu trong cả năm nay và năm sau ở mức 100,000 thùng/ngày. Đặc biệt, OPEC hạ nhu cầu tiêu thụ dầu trong quý IV năm nay khoảng 400.000 thùng/ngày, do kỳ vọng nhu cầu tiêu thụ suy yếu ở Trung Quốc và các khó khăn trong kinh tế mà châu Âu gặp phải.

Nhóm cũng cho biết trong quý II và quý III, thị trường đã thặng dư lần lượt 200.000 và 1,1 triệu thùng/ngày. Rủi ro lớn nhất mà thị trường đang phải đối mặt bao gồm lạm phát cao, chính sách thắt chặt tiền tệ của các ngân hàng trung ương, mức nợ công cao ở nhiều khu vực, thắt chặt thị trường lao động và những bất ổn trong chuỗi cung ứng.

Các thông tin tiêu cực trong phiên tối đã đẩy giá dầu xuống mức thấp nhất trong vòng 3 tuần.

Bên cạnh đó, tâm lý lo ngại rủi ro gia tăng trở lại cũng gây sức ép lên thị trường chung. Dòng tiền đang phân bổ một phần từ thị trường rủi ro sang tài sản trú ẩn, với thị trường chứng khoán, tiền điện tử đều ghi nhận mức giảm, trong khi chỉ số đô la Mỹ tăng trở lại.

Cà phê Arabica gặp áp lực

Kết thúc phiên giao dịch đầu tuần (14/11), sắc đỏ chiếm ưu thế trên bảng giá các mặt hàng nhóm nguyên liệu công nghiệp.

Cà phê Arabica ghi nhận mức giảm 2,29% trước những thông tin tích cực từ nguồn cung. Theo báo cáo của Brazil, xuất khẩu cà phê trung bình hàng ngày trong 2 tuần đầu của tháng 11 đạt 11.400 bao loại 60 kg, cao hơn mức 9.200 bao của cùng kỳ năm ngoái, cho thấy quốc gia xuất khẩu số một thế giới đang đẩy mạnh nguồn cung ra thị trường.

Cùng với đó, tồn kho Arabica đạt chuẩn trên Sở ICE US vẫn ghi nhận đà tăng và sẽ tiếp tục là yếu tố gây áp lực lên giá.

Đồng đô la Mỹ khởi sắc trong phiên hôm qua đã khiến bông Mỹ trở nên đắt hơn đối với khách hàng nắm giữ các loại tiền tệ khác, khiến lực mua trên thị trường suy yếu, từ đó gây áp lực lên giá.

Theo báo cáo Tiến độ mùa vụ của Bộ Nông nghiệp Mỹ mới công bố sáng nay, tiến độ thu hoạch tại Mỹ nói chung và bang Texas nói riêng vẫn ghi nhận tiến độ cao vượt trội so với mức cùng kỳ năm ngoái và trung bình 5 năm. Đây có thể tiếp tục là nhân tố gây áp lực lên giá bông trong phiên hôm nay.

Kết thúc phiên giao dịch đầu tuần, dầu cọ thô giảm mạnh hơn 4% do đồng Ringgit của Malaysia (nước sản xuất dầu cọ lớn thứ hai thế giới) mạnh lên. Đồng Ringgit tăng 0,7% so với đô la Mỹ và là phiên tăng thứ hai liên tiếp. Điều này khiến giá dầu cọ trở nên đắt đỏ hơn đối với các khách hàng nắm giữ đồng đô la Mỹ, từ đó gây áp lực lên giá.

Bên cạnh đó, Ấn Độ cho biết trong niên vụ 2021/2022, quốc gia này đã nhập khẩu dầu cọ ít hơn 4,8% so với cùng kỳ năm ngoái do việc Indonesia hạn chế xuất khẩu trước đó.

Ở chiều ngược lại, đường tiếp nối đà tăng từ tuần trước với mức tăng lần lượt 0,97% với đường 11 và 0,35% với đường trắng. Lo ngại về nguồn cung trong ngắn hạn do thời tiết mưa tại Brazil khiến hoạt động sản xuất bị ảnh hưởng tiếp tục hỗ trợ giá, giúp đường 11 chạm mức cao nhất trong 5 tháng gần đây.

Việt Nam vẫn là quốc gia cung ứng cà phê hàng đầu

Trên thị trường nội địa, ghi nhận trong sáng nay, giá cà phê nhân xô tại Tây Nguyên và các tỉnh Nam Bộ giảm 400 đồng/kg. Theo đó, giá cà phê tại các khu vực trọng điểm trong nước được thu mua ở mức giá 39.600 - 40.100 đồng/kg.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu cà phê trong tháng 10 vừa qua của nước ta đạt hơn 79,8 nghìn tấn, trị giá 206,9 triệu USD, giảm 13,7% về lượng và giảm 8,5% về trị giá so với tháng trước đó do chưa chính thức bước vào giai đoạn thu hoạch của mùa vụ mới.

Tuy nhiên, tính chung 10 tháng, xuất khẩu cà phê vẫn đạt mức tăng trưởng 10,8% về lượng và tăng 33,7% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 1,4 triệu tấn với giá trị lên đến gần 3,28 tỷ USD.

Như vậy, mới hết tháng 10 nhưng kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước ta đã vượt 0,2 triệu USD so với mức 3,07 tỷ USD của cả năm 2021.

“Nhìn chung, ngành cà phê nước ta đã có một năm thành công với cả giá bán và sản lượng đều đạt các mức cao nhất trong vòng nhiều năm trở lại đây, tiếp tục giữ vững vị thế là quốc gia cung ứng cà phê hàng đầu thế giới”, MXV nhìn nhận.

PL

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.390 23.760 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.440 23.740 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.385 23.745 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.390 23.750 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.360 23.740 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.900 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.400 23.785 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.413 23.758 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.450 23.780 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.750
67.470
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.750
67.450
Vàng SJC 5c
66.750
67.470
Vàng nhẫn 9999
54.800
55.800
Vàng nữ trang 9999
54.600
55.400