Thị trường vàng sáng 13/3: Tiếp đà tăng

09:04 | 13/03/2023

Sáng nay, giá vàng tiếp đà tăng của tuần trước trong khi thị trường chờ đợi báo cáo chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Hai của Mỹ sẽ được công bố vào ngày mai.

thi truong vang sang 133 tiep da tang Thị trường vàng tuần tới: Dòng tiền trú ẩn sẽ tiếp tục đổ vào kim loại quý
thi truong vang sang 133 tiep da tang Thị trường vàng sáng 10/3: Ổn định sau phiên tăng mạnh

Tính đến 8h30 sáng nay (13/3) theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay tăng 8,3 USD (+0,44%) so với mở cửa lên 1.875,2 USD/oz, giao dịch đang dao động trong khoảng 1.868,1 - 1.896 USD/oz.

Trong khi đó, giá vàng hợp đồng tương lai tháng 4/2023 tăng 14,1 USD (+0,76%) lên mức 1.881,5 USD/oz.

thi truong vang sang 133 tiep da tang

Thị trường vàng đã có mức tăng hàng tuần một cách bất ngờ do rủi ro tiềm ẩn từ cuộc khủng hoảng của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB). Chốt tuần, vàng đã tăng khoảng 0,7%.

Tuần trước, các nhà đầu tư đã đổ xô vào vàng sau sự sụp đổ của SVB. Theo các chuyên gia phân tích, SVB là một trong những tập đoàn tài chính công nghệ cho vay lĩnh vực khởi nghiệp hàng đầu của Mỹ và sự thất bại của họ cho thấy những hậu quả tiềm tàng không lường trước được của chu kỳ thắt chặt tích cực mà Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang theo đuổi trong cuộc chiến chống lạm phát. Điều đáng lo ngại là những rắc rối của người cho vay tập trung vào các công ty khởi nghiệp có thể ảnh hưởng đến phần còn lại của thị trường toàn cầu.

“Dòng tiền trú ẩn an toàn đang chuyển sang vàng trước những lo ngại về tình hình bất ổn tài chính hiện nay. Các công ty khởi nghiệp và lĩnh vực đầu tư mạo hiểm tiềm ẩn rủi ro lớn nhất mà các nhà đầu tư đang theo dõi", chuyên gia phân tích thị trường cấp cao của OANDA, Edward Moya nói.

Nhưng, điều đó đang tạo lực đẩy bất ngờ cho vàng, sau khi kim loại quý có xu hướng giảm trước triển vọng Fed sẽ tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản tại cuộc họp tháng Ba.

Vàng hiện đang phục hồi nhờ một số yếu tố thúc đẩy: sự sụp đổ của SVB và rủi ro trên thị trường tài sản, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn từ tháng Hai...

"Báo cáo bảng lương phi nông nghiệp vừa được công bố cho thấy thị trường lao động đã sẵn sàng hạ nhiệt. Áp lực tiền lương nhẹ hơn nhiều so với dự báo và tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 3,4% lên 3,6%", Moya nói và thêm rằng: "Vàng đang tăng giá khi thị trường đặt cược khả năng tăng lãi suất của Fed giảm xuống và khi rủi ro tác động lây lan của SVB kích hoạt một số giao dịch mua trú ẩn an toàn. Thị trường trái phiếu hiện đang bắt đầu dự đoán các đợt cắt giảm lãi suất vào cuối năm nay...".

Bên cạnh đó, bạc xanh và lợi suất trái phiếu kỳ hạn 2 năm giảm mạnh cũng đã hỗ trợ rất nhiều cho giá vàng lên cao hơn.

“Vàng đang trở thành giao dịch yêu thích của mọi người một lần nữa và điều đó có thể tiếp tục khi những lo ngại về rủi ro thanh khoản sẽ không được giải quyết một cách nhanh chóng", Moya nói thêm.

Tuy nhiên, chuyên gia kim loại quý của Gainesville Coins, Everett Millman lưu ý rằng động thái này của vàng sẽ bền vững như thế nào? 

"Đây nhìn chung là một phản ứng ngắn hạn khi nhu cầu trú ẩn an toàn xuất hiện. Lo ngại về sự ổn định của hệ thống ngân hàng Mỹ và bạc xanh giảm mạnh đang thúc đẩy vàng tăng cao hơn trong ngắn hạn", Millman nói.

Ông cho rằng, câu trả lời liệu vàng có thể giữ ở mức tăng bền vững hay không sẽ được trả lời trong tuần này, đặc biệt là trong bối cảnh báo cáo lạm phát sẽ được công bố vào thứ Ba.

Vị này nói thêm rằng: “Tôi không nghĩ vàng đã chạm đáy và giá có thể còn giảm nữa trong nửa đầu năm nay. Tôi sẽ không ngạc nhiên khi thấy vàng bị mắc kẹt trong phạm vi từ 1.800 đến 1.900 USD/oz”.

Millman lưu ý rằng giao dịch rất biến động và với báo cáo lạm phát sắp được công bố, điều quan trọng cần chú ý là cách thị trường phản ứng với dữ liệu đó.

Thị trường đang dự báo lạm phát sẽ giảm xuống 6% từ 6,4% trong tháng Hai.

Chiến lược gia thị trường cấp cao của RJO Futures, Frank Cholly nói với Kitco News rằng nhu cầu trú ẩn an toàn đã đẩy vàng lên các mức mà các nhà đầu tư trở nên lạc quan hơn. 

"Tôi đang xem mức giá 1.875-1.880 USD/oz. Chúng ta có thể gặp một chút khó khăn để giá vàng chạm đến mức đó, tương đương đường trung bình động 50 ngày. Trong khi đó, đường trung bình động 200 ngày ở mức 1.800 USD/oz đang là ngưỡng hỗ trợ vững chắc của vàng", Cholly lưu ý.

Trong khi đó, với việc nền kinh tế có thể sớm gặp khó khăn hơn, Moya vẫn lạc quan về vàng nhưng dự đoán kim loại quý trước tiên sẽ ổn định quanh mức hiện tại.

"Tôi đang xem xét mức giá 1.865 USD/oz ở thời điểm hiện tại. Bối cảnh vĩ mô đã thay đổi. Mức kháng cự hiện nay là 1.880 USD/oz. Và sau đó mọi người sẽ chú ý đến mức 1.900 USD/oz. Nếu chúng ta nhận được một báo cáo lạm phát "dễ dịu" hơn và những lo ngại về bất ổn tài chính tiếp tục được nhắc đến, thì chúng ta có thể có một đợt tăng giá tốt, với mức tăng 50-70 USD/oz mỗi ngày".

Thận trọng hơn, chuyên gia phân tích kỹ thuật, Sunil Kumar Dixit tại SKCharting cho rằng: “Nếu động lượng có dấu hiệu cạn kiệt do các điều kiện mua quá mức, thì có thể chứng kiến một đợt giảm giá ngắn hạn về phía ngưỡng hỗ trợ, đẩy giá xuống mức 1.848 USD/oz”.

Trong số 21 chuyên gia phân tích tham gia khảo sát giá vàng, có 16 chuyên gia, tương đương 76% lạc quan về vàng trong thời gian tới; có 3 chuyên gia, tương đương 14%, cho rằng giá sẽ giảm; và 2 chuyên gia còn lại, tương đương 10% cho rằng giá đi ngang.

thi truong vang sang 133 tiep da tang

Trong khi đó, 571 người tham gia thăm dò trực tuyến, có 340 người, tương đương 60% kỳ vọng vàng sẽ tăng; 146 người khác, tương đương 26% cho rằng nó sẽ thấp hơn; trong khi 85 người còn lại, tương đương 15% đưa ra quan điểm trung lập trong thời gian tới.

thi truong vang sang 133 tiep da tang

Tại thị trường trong nước, sáng nay, giá vàng SJC được Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) niêm yết tại TP.HCM ở mức 66,30 - 67,02 triệu đồng/lượng, tăng 300 nghìn đồng/lượng ở giá mua và 200 nghìn đồng/lượng ở giá bán so với cuối phiên trước đó.

Tại Hà Nội, giá vàng SJC được niêm yết ở mức 66,30 - 67,02 triệu đồng/lượng, tăng 300 nghìn đồng/lượng ở giá mua và 200 nghìn đồng/lượng ở giá bán so với cuối phiên trước đó.

Trong khi đó, giá vàng DOJI tại Hà Nội đang niêm yết ở mức 66,10 - 66,90 triệu đồng/lượng, tăng 100 nghìn đồng/lượng ở cả giá mua vào và bán ra so với cuối phiên trước đó.

Tại TP.HCM, giá vàng DOJI đang niêm yết ở mức 66,25 - 66,90 triệu đồng/lượng, tăng 300 nghìn đồng/lượng ở giá mua và 150 nghìn đồng/lượng ở giá bán so với cuối phiên trước đó.

P.L

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,00
5,10
5,10
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,40
5,50
5,60
7,40
7,50
7,70
7,90
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,30
7,30
7,30
7,30
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,30
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
5,50
5,50
5,50
7,90
7,95
8,00
8,30
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.270 23.640 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.330 23.630 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.290 23.655 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.280 23.650 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.240 23.620 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.300 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.273 23.778 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.306 23.650 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.290 23.910 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.350 23.680 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.450
67.070
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.450
67.050
Vàng SJC 5c
66.450
67.070
Vàng nhẫn 9999
55.050
56.050
Vàng nữ trang 9999
54.950
55.650