Trùng tu hay “chu di” di tích
Sau khi khoe những tấm ảnh chụp đình Tân Đông (xã Tân Đông, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang), bạn tôi kèm theo câu: “Vô nhanh, mình đưa đến đó mà coi, chụp hình khi nó chưa bị trùng tu”.
Chùa Nôm (Hưng Yên) sau khi được trùng tu
Tôi thật sự giật mình lo ngại cho ngôi đình cổ độc nhất vô nhị đã được báo chí hết lời ca tụng và cũng hết lời “kêu cứu”. Không trùng tu, ngôi đền đang xuống cấp nghiêm trọng kia sẽ bị sập bất cứ lúc nào, mặc dù nó đang được “bảo vệ” bởi chùm rễ cây bồ đề. Nhưng nếu trùng tu theo kiểu “hiện đại hóa”, “mới hóa” như nhiều di tích đã và đang được trùng tu như hiện nay thì di tích đã không còn nguyên gốc. Mà như nhiều người, sau khi quay lại những di tích lịch sử, tôn giáo được trùng tu, đã châm biếm rằng đi xem “di tích tân cổ giao duyên”.
Lại nữa, mới đây lùm xùm dư luận kêu la về vấn đề bảo tồn, trùng tu làng cổ Đường Lâm, chùa Một Cột (Diên Hựu) thì câu chuyện trùng tu, bảo tồn di tích một lần nữa lại làm bận bịu các nhà khoa học bởi những cuộc hội thảo, thảo luận… Như vậy, thì câu chuyện trùng tu, bảo tồn di tích không còn là chuyện để dành “sau chiến tranh” như chúng ta vẫn tự nhủ ở những thập kỷ đầu 70 của thế kỷ trước.
Tính đến tháng 8/2010, Việt Nam có hơn 40.000 di tích, thắng cảnh trong đó có hơn 3.000 di tích được xếp hạng di tích quốc gia và hơn 5.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Riêng Hà Nội có khoảng 5.175 di tích, nhiều nhất cả nước, trong đó, 1.069 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, 1.047 di tích xếp hạng cấp thành phố. Tuy nhiên, cho đến nay, vấn đề bảo tồn và trùng tu di tích luôn là vấn đề gây bức xúc nhiều trong giới khoa học cũng như dư luận xã hội.
Đã không ít các di tích có độ tuổi tính bằng thế kỷ, sau khi được trùng tu, thì chính di tích còn “không nhận ra mình” bởi sự làm mới một cách thái quá như kiểu sơn móng tay, tô lông mày cho các vị La hán ở chùa Đậu; Chùa Trăm Gian được trùng tu bằng cách dỡ bỏ chùa cũ, xây lại chùa mới…
Trả lời báo Pháp luật TP.Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Tế Thanh, nguyên Phó giám đốc Sở VH-TT&DL TP.Hồ Chí Minh cho rằng: “Điều quan trọng của vấn đề bảo tồn là giữ lại nguyên gốc, vì di tích chính là điểm kết nối giữa quá khứ và hiện tại, là ký ức của dân tộc. Hiện nay, khái niệm bảo tồn đang được đánh đồng với xây mới, nghĩa là không tuân theo nguyên tắc của trùng tu về kiểu dáng, vật liệu, màu sắc khiến di tích bị biến dạng so với nguyên gốc. Mà như vậy thì di tích không còn giá trị gì nữa”.
Ông Nguyễn Sự - Bí thư Thành ủy TP. Hội An nhấn mạnh: Muốn bảo tồn di sản, điều đầu tiên phải làm sống lại chúng. Có nghĩa phải biến di sản đó thành nguồn thu, lấy di sản nuôi di sản chứ không phải để di sản thành thứ “để trong tủ kính” cho người ta chiêm ngưỡng. Từ quan niệm đúng đắn đó, đến nay, TP. Hội An được xem như một điển hình về bảo tồn di sản. Người dân Hội An luôn ý thức được rằng, nếu họ không bảo tồn được những di tích, bảo tồn được sự cổ kính của thành phố này, cũng đồng nghĩa họ đã khước từ đi nguồn thu đáng kể từ cái được gọi là di sản, mà trước đó họ chưa từng nghĩ tới.
Tiêu chí trùng tu mà các nhà khoa học đặt ra, phải đạt được 2 yếu tố cơ bản đó là đảm bảo giá trị lịch sử và đảm bảo giá trị về mặt khoa học, mà họ thường nói là giá trị về mặt tri thức. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, những tiêu chí này dường như chưa được những người làm công tác bảo tồn quan tâm. Quan trọng hơn, là công tác quản lý việc trùng tu đã không được quan tâm thỏa đáng từ phía các cơ quan hữu trách, chính quyền địa phương.
Được biết, từ nhiều năm trước, Bộ VH-TT&DL đã phê duyệt đầu tư dự án “Xây dựng ngân hàng dữ liệu số về di tích và công tác bảo tồn di tích ở Việt Nam”. Theo ước tính ban đầu, có tới 10 vạn đầu di sản văn hóa vật thể, hơn 10 ngàn lễ hội, di tích, di chỉ... sẽ được số hóa và dự án sẽ hoàn thành vào năm 2015.
Đây có thể xem như giải pháp ban đầu cho việc quản lý và bảo tồn di tích mang tính khả thi cao, trong bối cảnh hiện nay.
Bài và ảnh: Hoàng Quốc