Chầu văn nơi xứ Mường
Tôi theo mế đi đền vào mồng Một tết. Những ngày đầu xuân, cuộc sống vốn bình dị của một xã miền núi như quê tôi, trở nên nhộn nhịp bởi không khí lễ hội. Mùi trầm hương tỏa ra từ các ngôi đền khiến lữ khách hành hương về cõi tâm linh dường như cũng tự dặn lòng mình phải kiêng dè trong từng câu nói và việc làm vì sợ phạm húy.
Sau bữa trà anh Việt ngồi đàn cho cả nhà nghe |
Vùng đất quê tôi là nơi quần tụ nhiều đền thờ? Ngôi đền nào cũng nổi tiếng linh thiêng, bậc nhất là đền Phố Cát, đền Sòng, đền Phủ Đồi Ngang... Từ những ngôi đền cổ kính, linh thiêng đó, quê tôi được bồi đắp một nét văn hóa rất riêng - Đó là văn hóa hát và nghe chầu văn ở sân đền. Ở quê tôi hát chầu văn qua thăng trầm của lịch sử, vẫn được lặng lẽ bảo tồn và gần đây trở nên khởi sắc.
Tôi cùng mế ngồi dưới sân đền, nghe hát văn và xem thanh đồng lần lượt hóa thân vào các vị Thánh để ban tài phát lộc. Bỗng nhiên, tôi chợt nhận thấy trong lòng có một chút nỗi niềm trống trải, thiếu vắng điều gì đó khó có thể lấp đầy. Những năm tháng tuổi thơ tôi đang trở về chầm chậm như một thước phim đen trắng.
Người nghệ sĩ mù ở đền Phố Cát
Khoảng những năm 1990, người dân quanh vùng, ngày ngày vẫn thấy một thằng bé con dắt một ông già mù ngày hai lượt đi về đền Phố Cát, trên con đường đất mấp mô, nhiều đá sỏi và vũng lầy. Ông già mù đó là ông chú ngoại của tôi. Người dân trong vùng vẫn thường gọi ông với cái tên gần gũi - ông Sáu mù hát văn. Còn thằng bé chính là tôi thuở chưa đầy 7 tuổi.
Khách thập phương tới đền Phố Cát |
Tiếng đàn và giọng hát của ông Sáu làm say đắm bao người. Ông là người Mường lại không biết chữ, nhưng những bài hát văn ông đều thuộc nằm lòng. Ông hát bằng cả tiếng Kinh, tiếng Mường và hơn tất cả, đó là ông hát bằng trái tim mình. Những người yêu tiếng hát ông khi biếu gói kẹo, gói bánh, lúc lại mấy tờ 200 - 500 đồng… Vì vậy mà dù bị mù nhưng nhờ tiếng hát và tiếng đàn, ông Sáu vẫn có thể sống rất tốt bằng lộc do người nghe hát ban thưởng.
Tết năm ấy, đền Phố Cát vắng người vãn cảnh. Trời đầu xuân dăng dăng những cơn mưa phùn không ngớt. Tôi nghe nói, con suối chảy qua đền có cá thần, mế tôi khẳng định, loài cá đó rất lạ “mình trăn mà đầu thì nửa rắn nửa cá”, mế còn dặn dò, người Mường tôn kính cá thần, nên mỗi khi đi qua cổng đền đều phải ngả nón cầm tay kính cẩn Ngài, nếu không thì sẽ ốm đau bệnh tật.
Nghe thế, tôi lại đâm ra tò mò, nên đi “rình”. Thế nhưng, có lẽ tôi chưa may mắn và có “duyên” với loài cá ấy. Người già trong vùng thì bảo với con cháu, dường như chứa chất cả một niềm ngóng đợi: Hồi chiến tranh chỗ suối bị ném bom, nên từ đó cá thần không về nữa…
Mưa phùn tí tách rơi trên tán cây muỗm bên hiên đền. Ngôi đền chìm trong mưa. Khói hương không át nổi hơi lạnh từ thung lũng thổi về… nhưng người nghệ sĩ mù vẫn ca những giai điệu chầu văn say đắm, huyền hoặc.
Khoảnh khắc đó, tôi cảm thấy ông không còn là ông nữa, mà là một vị thần giao hòa giữa quá khứ và hiện tại, giữa thế giới thần tiên và cuộc sống đời thực. Bấy giờ, ông trong tôi là một cảm giác mơ hồ rất linh thiêng. Ông hát, từng đàn chim rừng bay về đậu trên mái đền:
“Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đôi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non hồng
Phố Cát Đại Đồng sông Cả sông Thao
…
Tang tình thôi múa lại ca
Bẻ bai giọng Xá ê a giọng Mường
Tiếng Kinh tiếng Mán tỏ tường
Lục châu quan hỏa líu lường líu lo…
Khi ông ngừng hát, tôi hỏi ông người trong bài hát văn này là ai? Ông nói: “Mẫu Đệ Nhị - Thiên Thai Tiên Nữ cháu ạ. Bà là con của vua Đế Thích, cai quản sơn lâm thượng ngàn, quyền hành khắp nơi. Ở bất cứ nơi nào có rừng núi là có Mẫu Đệ Nhị ngự. Bà phát tài ban lộc cho những ai sống lương thiện, quê mình nhiều rừng nhiều núi nên thỉnh bà sẽ rất linh. Hát thế này là để kể lại câu chuyện về bà”.
Nghe ông giải thích, tôi lúc ấy thấy rất mơ hồ. Mãi sau này tìm hiểu tôi mới biết Chầu văn, còn gọi là Hát văn hay Hát bóng, là giai điệu tín ngưỡng của người Việt. Thông qua việc hát xướng và trình diễn, dân gian truyền tụng và ca ngợi công đức sâu dày của những người phụ nữ, những bậc anh hùng có công với dân với nước và được phong lên hàng Thánh. Dân lập đền thờ để quanh năm hương khói.
Người nghệ sĩ mù qua đời vài năm sau đó, nhưng cái tên “Ông Sáu mù hát văn” vẫn được người dân quê tôi nhắc đến đâu đó trong những câu chuyện cuộc đời, như bảo tồn một huyền thoại về “Người nghệ sĩ dân gian mù” ăn mày cửa đền. Phải chăng, huyền thoại về ông, nhắc nhớ về ông… khiến cho vẻ linh thiêng, huyền bí của ngôi đền thêm phần màu sắc.
Truyền nhân của nghệ sĩ mù
Đang mải miết với những kỷ niệm của quá khứ, thì bất chợt một giọng hát rất quen vẳng lại, làm tôi như choàng tỉnh về hiện tại. Tôi nghe như tiếng hát của ông Sáu chứ không phải là hoài niệm ký ức. Từ giọng hát ấy, tôi có cảm giác linh thiêng trong từng khúc ngân. Đó là cách ngân của ông Sáu mù. Tôi chắc chắn vậy, bởi cái gì đã hằn in trong trí nhớ tuổi thơ thường rất khó phai mờ.
“Chim kêu vượn hót véo von
Chớp bể đôi đoạn mưa nguồn từng cơn
Khi nương gió lúc thác gièm
Khi bẻ cành quế khi vin cành hồng
Vui chơi nước nhược non hồng
Phố Cát Đại Đồng sông Cả sông Thao…”.
Cố chen lên phía trước để nhìn. Thì ra, người thay phiên hát giá đồng mới này là anh trai tôi – tên Việt - đã theo nghề hát văn tại các đền được mấy năm nay. Sau buổi ấy, tôi nói với anh về những cảm nhận của mình khi nghe anh hát. Anh cười và bảo: “Ông Sáu dạy tao đàn tao hát, không giống ông thì giống ai mày”.
Khi còn bé, anh Việt cũng thường được mế sai dắt ông Sáu lên đền. Theo ông Sáu miết, dần dà anh đã yêu chầu văn từ thuở ấy: “Nghe nhiều nó ngấm vào máu từ lúc nào không biết mày ạ. Đó là cái duyên mà cũng là cái lộc”. Lúc đầu anh xin ông Sáu dạy chơi đàn ghita, vì lúc đó tuổi còn trẻ nên chỉ nghĩ, chơi ghita để có thêm một “chiêu” đi “cua” gái.
Nhưng cũng từ những ngón đàn đầu tiên như vậy, ông Sáu mù đã rèn cho anh về cách thẩm âm, linh hoạt trong từng ngón đàn. Với việc hát văn, lúc đầu anh cũng chỉ là hát theo chứ chưa có một ý thức nào về việc học để đi hát cả. Thế nhưng, nhờ vậy anh đã học được từ ông cách ngân rung và lấy hơi.
Từng kinh qua đủ nghề: từ kỹ sư xây dựng ở Tổng công ty xây dựng Vinaconex số 9 đến khi vào Sài Gòn lập nghiệp, cũng đã có lúc phải chạy xe ôm kiếm sống… Nhưng, cái “duyên” với nghiệp hát chầu văn lại đưa anh trở về mảnh đất này. Anh gặp lại người bạn, thời tuổi thơ đã cùng nhau ăn mày cửa đền. Anh ấy, nay cũng đã là một ca văn.
Như con suối giữa rừng bấy lâu bị tắc được khai thông, tình yêu với chầu văn trong anh bấy lâu ngủ quên nay có dịp bừng tỉnh. Lúc đầu anh xin phụ gõ phách cho bạn, rồi học đàn nguyệt, rèn luyện giọng hát… Anh học rất nhanh, kể như những việc đó đã có sẵn trong anh, giờ chỉ việc khơi ra mà thôi.
Bây giờ, anh đã trở thành một trong những người hát chầu văn có tiếng trong vùng, mỗi khi ai khen, anh đều bảo: “Cũng nhờ khi xưa được ông Sáu mù chỉ dạy, những ngón đàn và làn điệu hát văn đã thấm vào máu từ khi ngồi cạnh ông ở đền”.
Hiện tại công việc hát văn cửa đền cũng mang lại một cuộc sống khá đầy đủ cho gia đình anh. Bên cạnh việc đi hát, hiện anh còn nhận dạy hai đệ tử và cũng bắt đầu từ việc gõ trống, gõ phách.
Tôi và mế đợi anh hát xong hết giá đồng rồi cùng về. Bữa cơm sum họp đầu năm thật ấm cúng trong ngôi nhà sàn thoang thoảng mùi khói từ bếp lửa của mế. Sau bữa ăn, anh tôi lấy đàn ra gảy và hát. Tiếng đàn lúc như tiếng nước chảy, khi tựa tiếng chim hót. Cả gia đình uống trà và nói chuyện bằng tiếng dân tộc.
Thỉnh thoảng, anh quay sang hát vài câu hát tiếng Mường: “Chúc ủn eeng sang răm mới sức khoeẻ, laa ăn rêêng, ruôi con cúi con ca ò ổm ò đâu, ruộng mạ án mua”.
“Chúc anh em trong nhà, sang năm mới mạnh khỏe, làm ăn phát đạt, nuôi con lợn con gà không ốm đau, ruộng lúa được mùa”.