Chiến tranh thương mại: Sáu lợi ích, vấn đề với Mỹ
Nhiều doanh nghiệp Mỹ đang thiếu lao động, tuyển dụng khó khăn |
Đó không chỉ là việc làm giảm bảo hộ mậu dịch trên toàn cầu, kéo sản xuất về nước Mỹ, đó cũng không chỉ là giảm tỷ lệ thất nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, mà còn là các vấn đề ổn định tài chính, phục hồi chỉ số chứng khoán, thúc đẩy phát triển…
Giảm bảo hộ, thúc đẩy phát triển
Theo lưu ý của Ed Yardeni, trước khi khởi động các cuộc chiến kinh tế của mình, Tổng thống Donald Trump đã tạo gối đệm cho nền kinh tế Mỹ để đối phó với các cuộc tấn công, với việc bãi bỏ và cắt giảm thuế. Ông cho rằng điều đó sẽ cho phép Mỹ giành chiến thắng trong cuộc chiến mà không chịu nhiều thiệt hại, dù rằng vẫn sẽ có một ít.
Cho đến nay, thị trường chứng khoán Mỹ dường như đang thể hiện cách tiếp cận vấn đề của Trump là chính xác. Các nhà đầu tư ngày càng nghiêng về khả năng cuộc chiến đang diễn ra sẽ dẫn tới kết cục là ít bảo hộ hơn và thịnh vượng hơn với toàn cầu.
Tổng thống Donald Trump có thể nhanh chóng leo thang hoặc xuống nước trong xung đột thương mại với các đối tác kinh tế lớn của Mỹ, cách thức nào thì tùy thuộc vào mức độ tiến triển trong các cuộc đàm phán. Nhưng Ed Yardeni tin rằng Mỹ đang thúc đẩy thương mại công bằng hơn với các rào cản thương mại ít hơn, chứ không phải các mức thuế cao hơn mà ông Trump đang sử dụng như một công cụ đàm phán chiến thuật.
Chứng khoán tăng, doanh nghiệp nhỏ làm ăn tốt
Khó có thể đo lường mức độ tác động của việc bãi bỏ quy định trong kinh doanh của Trump lên những gì S&P 500 đã đạt được vừa qua. Giá cổ phiếu của các doanh nghiệp nhỏ đã cải thiện vượt trội so với các công ty lớn kể từ khi Trump được bầu vào tháng 11/2016.
Kể từ đó đến hết thứ Sáu tuần trước, chỉ số giá cổ phiếu vốn hóa nhỏ S&P 600 tăng 50,3%, vượt xa mức 34,4% của chỉ số giá cổ phiếu vốn hóa lớn S&P 500 và 34,5% của cổ phiếu hóa vốn trung bình S&P 400.
Doanh nghiệp nhỏ hưởng lợi hơn doanh nghiệp lớn |
Một lý do quan trọng khiến các doanh nghiệp nhỏ đang hoạt động tốt: Các công ty nhỏ có thể nhận được lợi nhuận sau thuế lớn hơn từ việc cắt giảm thuế của Trump so với các tập đoàn lớn vốn trước đó luôn có cách thức tránh thuế tốt hơn.
Ở khía cạnh khác, các quy định kinh doanh thường được thúc đẩy áp dụng bởi các công ty lớn và sẽ khiến các đối thủ cạnh tranh nhỏ bị hạn chế ít nhiều. Nhưng cuộc khảo sát hàng tháng được thực hiện bởi Liên đoàn Kinh tế độc lập Quốc gia (NFIB) cho thấy đang có ít hơn đáng kể các chủ doanh nghiệp nhỏ báo cáo quan ngại về quy định kinh doanh và thuế của chính phủ kể từ khi Trump được bầu.
Tăng việc làm, giảm thất nghiệp
Kể từ tháng 11/2016, khi Trump được bầu làm Tổng thống, việc làm có trả công tăng 3,9 triệu, trong đó có 412.000 việc làm từ khu vực sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 4,6% xuống 3,9% trong tháng Bảy vừa qua. Ông Trump rõ ràng đã tạo ra những kết quả này.
Theo lưu ý của Ed Yardeni, các chính sách của Washington hoàn toàn có thể giúp các công ty thuê lao động dễ dàng hơn, hay ngược lại là khó hơn. Nhưng chính sách của ông Trump chắc chắn đang hỗ trợ tạo việc làm.
Trong lần công bố gần đây, dữ liệu việc làm có trả lương của ADP (Automatic Data Processing, Inc.) cho thấy các công ty nhỏ, vừa và lớn đã tăng số lượng lao động của họ lên lần lượt là 1 triệu, 1,6 triệu và 1,2 triệu kể từ tháng 11/ 2016.
Tuy nhiên trong cuộc khảo sát của NFIB thì các công ty nhỏ hơn lại đang gặp vấn đề về nhân sự. Trong tháng Bảy, một kỷ lục 37% chủ doanh nghiệp nhỏ báo cáo đang tuyển thêm người. Cùng thời gian này, tới 52% chủ doanh nghiệp nhỏ cho biết có rất ít hoặc không có người nộp đơn đủ tiêu chuẩn cho vị trí việc làm của công ty họ.
Doanh nghiệp nhỏ đối mặt khó khăn tuyển dụng |
Để giảm bớt áp lực này, theo Ed Yardeni giải pháp tốt nhất là đi đến thỏa thuận ở nghị viện về chính sách di cư, cho phép nhiều người nhập cư hợp pháp hơn vào Mỹ để lấp đầy các vị trí việc làm còn trống. Nhưng nhiều khả năng là các công ty sẽ tiếp tục tiếp cận với những người đã quá tuổi lao động nhưng vẫn còn khả năng làm việc. Thậm chí các công ty sẽ đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ để tăng năng suất.
Kéo về sản xuất, thúc đẩy năng suất
Sự phục hồi việc làm trong khu vực sản xuất như đề cập ở trên đưa đến dự báo triển vọng tốt đẹp cho sản lượng sản xuất, và có thể cho cả năng suất. Điều đó không được ghi nhận trên diện rộng kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào cuối năm 2001, khi cả sản xuất và năng lực sản xuất ở Mỹ đều “giậm chân tại chỗ”.
Hiển nhiên, rất nhiều nhà sản xuất đã chuyển hoạt động sang Trung Quốc, và không đầu tư nhiều vào việc nâng cao năng suất của họ ở Mỹ. Vì vậy, người ta tin rằng tốc độ tăng trưởng năng suất chậm ở Hoa Kỳ chủ yếu là do ngành dịch vụ mang lại. Thực tế là tốc độ tăng trưởng hàng năm trong giai đoạn 5 năm của năng suất sản xuất tại Mỹ đã đạt mức 6,0% trong quý III/2003 để rồi giảm xuống 0% trong những năm gần đây.
Nếu ông Trump thành công trong việc đưa sản xuất trở lại Mỹ, thì các nhà sản xuất có thể bị ép buộc phải tìm đủ công nhân và thúc đẩy năng suất của họ, thay vì tăng thu nhập cho mình.
Sản lượng và năng lực sản xuất của kinh tế Mỹ ít cải thiện trong thời gian dài |
Trong khi đó, tốc độ đổi mới công nghệ nhanh chóng tiếp tục phá vỡ các mô hình kinh doanh trong cả lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Điều này buộc tất cả các doanh chủ phải tập trung vào những đổi mới để duy trì tính cạnh tranh. Tăng lương và tăng giá sản phẩm dịch vụ trong môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh cao nhờ sự thúc đẩy của công nghệ như hiện nay chắc chắn sẽ bị bỏ lại đằng sau.
Rủi ro nợ, sẵn quỹ đầu cơ can thiệp
Nếu bạn là người không có khả năng nhìn nhận rõ ràng, bạn thậm chí bạn có thể đã bỏ qua một cuộc suy thoái nhỏ diễn ra vào năm 2015. Đó là một cuộc suy trầm tăng trưởng kinh tế hơn là sự sụt giảm thực tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các thị trường nợ ghi nhận diễn tiến đáng quan ngại đó, khi chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu doanh nghiệp lợi suất cao và trái phiếu kho bạc 10 năm tăng từ mức thấp 253 điểm cơ bản vào ngày 23/6/2014 lên mức cao 844 điểm cơ bản vào ngày 11/2/2016. Điều đó có nguyên nhân từ sự rớt mạnh của giá cả hàng hóa, dẫn đầu bởi diễn biến giảm 76% giá mỗi thùng dầu Brent.
Theo đó, đã xuất hiện một cuộc khủng hoảng tín dụng ngay lập tức đối với các nhà sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, nó rất nhanh chóng kết thúc mà không lây lan. Chênh lệch chất lượng lợi suất đã giảm trở lại xuống 362 điểm cơ bản vào cuối năm 2016 và dao động quanh mức này kể từ đó.
Chênh lêch lợi suất trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu kho bạc 10 năm thay đổi đột ngột |
Điều chính đó là do các quỹ đầu cơ tài sản rủi ro đã nhảy vào và tái cơ cấu các bảng cân đối của các nhà sản xuất hàng hóa có rủi ro, bằng cách chuyển nợ thành vốn chủ sở hữu. Theo tính toán của Ed Yardeni chỉ trong lĩnh vực năng lượng S&P 500, số cổ phiếu đã tăng từ 17,2 tỷ trong quý IV/2015 lên 18,3 tỷ trong quý IV/2017.
Quỹ đầu cơ tài sản rủi ro chắc chắn đóng vai trò như một bộ giảm sốc quan trọng cho thị trường nợ trong năm 2015. Họ cũng có khả năng sẽ làm như vậy một lần nữa trong cú sốc chất lượng nợ tiếp theo, Ed Yardeni nhìn nhận.
Tiêu dùng thấp, kinh tế ít khả năng “vỡ bong bóng”
Chu kỳ tăng trưởng kinh tế hiện tại sẽ đạt kỷ lục dài nhất trong lịch sử nước Mỹ nếu nó kéo dài cho đến tháng 7 năm tới. Điều này dường như là có thể, thậm chí là vượt qua mốc kể trên, phần nào đó là do tác động từ xu hướng dân số hiện nay của Mỹ.
Năm nay, số lượng người độc thân đông hơn số người đã kết hôn, tính trong độ tuổi từ 16 trở lên. Tỷ lệ người độc thân đã tăng từ 37,7% năm 1977 lên 50,8% vào tháng trước.
Trong khi chiến tranh thương mại tác động đến cung - cầu hàng hóa, thì tăng trưởng chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ cũng sẽ thấp hơn trong thời hoàng kim do người tiêu dùng sinh sau Thế chiến II, khoảng giữa các năm 1946-1964, tạo ra.
Việc tăng trưởng tiêu dùng giảm hiện tại chủ yếu là do những người chưa từng kết hôn tạo nên. Nhiều người trong số họ thuộc thế hệ 9X và đang trì hoãn việc kết hôn. Họ là những người tối giản, không có thu nhập lớn và ít chi tiêu, bởi vì họ chỉ cần nuôi sống bản thân.
Trong khi đó, thế hệ sinh sau Thế chiến II, giữa giai đoạn năm 1946-1964 từng là những người chi tiêu lớn khi đa số họ kết hôn và có con, thì nay cũng trở thành những người tối giản, họ chuyển đổi qua những ngôi nhà và căn hộ nhỏ hơn.
Thực tế đó có thể kìm hãm kinh tế phát triển và giảm khả năng bùng nổ tăng trưởng. Nhưng, nếu không có sự bùng nổ, sẽ ít có khả năng “vỡ bong bóng”.