Đánh thức tiềm năng nuôi trồng thủy sản
Xuất hiện những nút thắt cho vay thủy sản | |
Hợp tác xây dựng chuỗi giá trị thủy sản |
Hiệu quả kinh tế cao
Tuyên Quang sở hữu mạng lưới sông, suối dày đặc, trong đó có trên 8.400ha diện tích mặt nước hồ thủy điện, thích hợp cho việc đầu tư phát triển thủy sản trong đó có các loài cá đặc sản có giá trị kinh tế cao như: cá rầm xanh, cá anh vũ, cá chiên, cá lăng, cá bỗng...
Mô hình nuôi cá tầm trên lòng hồ thủy điện Tuyên Quang đang có những tín hiệu tích cực |
Bà Nguyễn Thị Vĩnh An, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Tuyên Quang chia sẻ, những năm gần đây, phát huy lợi thế, tiềm năng diện tích mặt nước ở các hồ thủy lợi, hồ thủy điện trên địa bàn tỉnh, phong trào nuôi cá lồng phát triển mạnh và tập trung tại huyện Na Hang và Chiêm Hóa, trong đó có một số DN và hợp tác xã đầu tư, phát triển nuôi trồng thủy sản quy mô lớn như: Công ty TNHH MTV Chăn nuôi Minh Phú, Công ty TNHH Lâm sản và Dịch vụ Long Giang… với các giống nuôi chính là cá chiên, cá lăng, cá bỗng, cá lóc bông… Số lượng lồng nuôi cá trên địa bàn là 1.393 lồng, trong đó có 358 lồng nuôi cá đặc sản; sản lượng nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2016 ước đạt 5.074,9 tấn.
Cũng giống như Tuyên Quang, Phú Thọ là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển nghề nuôi thâm canh cá lồng khi có trên 70 km sông Lô, trên 40 km sông Đà, trên 600 hồ đập lớn nhỏ, trong đó có 14 hồ chứa có dung tích trên 1 triệu m3. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản Phú Thọ cho hay, nếu năm 2012, toàn tỉnh mới có 4 hộ tham gia, quy mô 30 lồng nuôi, năng suất trung bình đạt 2,5-3 tấn/lồng/chu kỳ nuôi, sản lượng đạt 81 tấn thì đến hết năm 2016 tổng số lồng trên địa bàn tỉnh đạt trên 1.300 lồng, với 162 hộ nuôi năng suất trung bình ước đạt gần 5 tấn/lồng/chu kỳ nuôi, sản lượng cá lồng ước đạt 5.000 tấn. Nghề nuôi cá lồng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã đạt được những kết quả khả quan và góp phần quan trọng trong thực hiện tái cơ cấu lĩnh vực thủy sản của tỉnh.
Theo Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản (Tổng cục Thủy sản), Tây Bắc có 95 nghìn ha diện tích mặt nước với hệ thống sông, suối, khe nước hay mó nước, hồ thủy điện, hồ tự nhiên khá dày, thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản theo nhiều hình thức như: nuôi lồng, ao nuôi và nuôi trong bể.
Trong những năm qua, nuôi trồng thủy sản ở khu vực này đã phát triển khá tốt, diện tích nuôi ước đạt 37.500 ha, sản lượng ước đạt 70.000 tấn, tăng trung bình 12%/năm. Nhiều mô hình trang trại chăn nuôi và nuôi cá nước lạnh (cá hồi, cá tầm) đang được phát triển, ngoài ra còn một số đặc sản như: ba ba, ếch… cũng đang được nhân rộng, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho bà con các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Sơn La…
Chưa tận dụng hết tiềm năng
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo các chuyên gia, quy mô nuôi cá lồng bè chưa được đầu tư tương xứng, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nuôi thâm canh năng suất cao chưa phát huy hết tiềm năng và nguồn lực của vùng. Chưa cung cấp đủ giống về mặt số lượng và chưa kiểm soát tốt chất lượng giống tại chỗ cho người nuôi.
Bên cạnh đó, việc bảo vệ môi trường khi nuôi theo mô hình quản lý cộng đồng chưa tốt; Vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được coi trọng. Sản phẩm sản xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ. Một số loài có giá trị kinh tế cao nhưng chưa được phát triển mạnh, chưa có hàng hóa cho chế biến và xuất khẩu.
Ông Nguyễn Thanh Tùng, Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch Thủy sản chia sẻ, đánh giá một cách toàn diện thì việc phát triển thủy sản ở các hồ chứa này vẫn mang tính tự phát, nhỏ lẻ, chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có. Việc thiếu các cơ chế quản lý phù hợp cho từng hồ chứa dẫn tới sự lãng phí nguồn tài nguyên mặt nước.
Bên cạnh đó, công tác quản lý khai thác thủy sản hồ chứa lỏng lẻo, phần lớn các phương tiện khai thác không được kiểm soát, tự do khai thác với cường độ cao, kích cỡ mắt lưới nhỏ… dẫn tới một số loại cá có hiệu quả kinh tế cao như: cá chiên, cá anh vũ, cá dầm xanh… đang có nguy cơ tuyệt chủng. Không những thế, một số loại thủy sản như: tôm, cá dầu, cá ngão, cá mương… số lượng giảm đáng kể.
Đồng quan điểm về vấn đề này, TS. Lê Thanh Lựu - Trưởng ban Hợp tác Quốc tế và Thông tin - Hội Nghề cá Việt Nam cho hay, nuôi thủy sản hồ chứa mặc dù có khả năng sản xuất lớn, nhưng hiện nay quy mô vẫn chỉ là các hộ nhỏ lẻ và manh mún, chưa tạo ra nguồn cung thương phẩm dồi dào, chưa hình thành được các chuỗi giá trị một cách thực thụ.
Ông Lựu kiến nghị, cần đưa chương trình phát triển bền vững nuôi cá lồng bè trong hồ, sông suối của khu vực trung du miền núi phía Bắc thành một chương trình quan trọng cho cả vùng, với mục tiêu góp phần xây dựng nông thôn mới. Đồng thời, thử nghiệm mô hình chuỗi giá trị cá lồng cho đồng bào tái định cư khi xây dựng hồ chứa. Mô hình này được hình thành như một mô hình thực nghiệm, để từ đó mở rộng cho các vùng miền khác nhau.
Để khôi phục nguồn lợi thủy sản và phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững tại Tây Bắc, trước hết, chúng ta phải đánh giá lại diện tích mặt nước hồ chứa toàn khu vực, hiệu quả quản lý của các hồ chứa.
Từ đó, xem xét giao các hồ chứa có diện tích vừa và nhỏ cho cộng đồng quản lý, khai thác theo hình thức “đánh tỉa, thả bù”. Cùng với đó, việc nuôi trồng cần triển khai theo mô hình chuỗi, đảm bảo đầu ra, tránh phát triển ồ ạt, thiếu kiểm soát gây ảnh hưởng tới môi trường, ông Nguyễn Thanh Tùng cho biết thêm.