Đếm túi nilon để đánh thuế
Gia tăng kiểm tra, bảo vệ môi trường | |
Bảo vệ môi trường là vấn đề văn hóa | |
Ngân hàng tìm đến dự án bảo vệ môi trường |
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến cho dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thuế bảo vệ môi trường (Luật Thuế BVMT) với nội dung chính là nâng khung thuế suất đối với túi nilon và xăng sinh học.
Gần 5 năm đi vào cuộc sống, Luật Thuế BVMT đã đạt được 2 kết quả quan trọng nhất, là nâng cao trách nhiệm và nhận thức của xã hội đối với môi trường; khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường. Qua đó đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế bền vững, khuyến khích phát triển kinh tế đi liền giảm ô nhiễm môi trường.
Đây là thuế gián thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường. Thuế BVMT đưa chi phí “gây ô nhiễm môi trường” (các yếu tố ngoại ứng) vào giá bán của hàng hóa nên thu thuế BVMT làm tăng giá sản phẩm, hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế.
Ảnh minh họa |
Luật Thuế BVMT quy định hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế bao gồm: Xăng, dầu, mỡ nhờn; Than đá; Dung dịch hydro-chloro-fluoro-carbon (HCFC); Túi nilon thuộc diện chịu thuế; Thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc trừ mối thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc bảo quản lâm sản thuộc loại hạn chế sử dụng; Thuốc khử trùng kho thuộc loại hạn chế sử dụng.
Việc điều chỉnh biểu khung thuế BVMT với xăng và túi nilon lần này là cơ sở để điều chỉnh mức thuế cụ thể, qua đó sẽ góp phần nâng cao hơn nữa trách nhiệm và nhận thức của tổ chức, cá nhân đối với môi trường và khuyến khích sản xuất, tiêu dùng hàng hóa thân thiện với môi trường.
Đồng thời để phù hợp với chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước trong thời gian tới, nhất là trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng, phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu đối với xăng dầu theo các cam kết quốc tế.
Báo cáo tổng kết thi hành Luật Thuế BVMT đã chỉ ra thực trạng là mức thuế suất đối với túi nilon (nhựa PE) hiện nay chưa có nhiều tác dụng thay đổi hành vi của người tiêu dùng trong việc sử dụng túi nilon. Ví dụ, trong hoạt động bán lẻ tại siêu thị, cửa hàng và chợ, hầu hết người bán lẫn người mua vẫn sử dụng rất nhiều túi nilon mà không hề e ngại về chi phí. Một số nơi đã chuyển sang sử dụng túi giấy hoặc các loại túi nilon có thể tái sử dụng, tái chế, nhưng vẫn chưa phổ biến.
Tác động môi trường của việc sử dụng túi nilon nói riêng hay các sản phẩm nhựa nói chung đã rất rõ ràng. Sản phẩm thay thế túi nilon như túi giấy hoặc các loại vật đựng dùng nhiều lần cũng khá phổ biến. Do đó, việc điều chỉnh mức thuế đối với túi nilon là có cơ sở.
Theo kinh nghiệm quốc tế, nhiều nước trên thế giới đang áp dụng mức thuế BVMT cao hoặc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon. Cụ thể như: ở Anh: 15cent/túi, tương đương 4.500 đồng/túi; Ailen: 15cent/túi, tương đương 4.500 đồng/túi; Hồng Kông: 0,05USD/túi, tương đương 1.050 đồng/túi; Estonia đang dự kiến thu thuế đối với túi nilon ở mức 2 kroons/túi, tương đương 3.000 đồng/túi. Một số nước khác còn cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon mỏng, ví dụ như Trung Quốc cấm sản xuất, bán, sử dụng túi nilon có độ dày nhỏ hơn 0,025mm.
Tuy nhiên, khung và mức thu thuế BVMT đối với túi nilon của Việt Nam thấp so với các nước trên thế giới, nên chưa có tác động nhiều tới hạn chế việc sản xuất, sử dụng túi nilon. Cụ thể Luật Thuế BVMT quy định biểu khung mức thuế tuyệt đối đối với túi nilon từ 30.000 đồng/kg - 50.000 đồng/kg, mức thuế hiện hành là 40.000 đồng/kg (tương đương khoảng 200% giá bán hiện hành, nhưng 1kg túi nilon có thể có từ 100 - 200 túi, nghĩa là thuế BVMT chỉ thu khoảng 200 - 400 đồng/túi). Nếu tăng mức thuế BVMT đối với túi nilon lên mức trần 50.000 đồng/kg thì cũng chỉ tương đương từ 250 - 500 đồng/túi.
VCCI phân tích thêm khả năng tái chế, tái sử dụng của mỗi loại sản phẩm này khác nhau. Ví dụ, các loại túi nilon mỏng thì hầu như không thể tái chế, khả năng tái sử dụng cũng thấp. Các loại túi nilon dày hơn và đựng đồ sạch thì có thể tái sử dụng, tái chế dễ hơn. Vô hình trung, cách đánh thuế hiện nay dựa trên khối lượng túi sẽ dẫn đến tình trạng sản xuất nhiều hơn các loại túi nilon mỏng, còn các loại túi nilon dày lại phải chịu thuế cao hơn. Đây là cách đánh thuế chưa thực sự phù hợp vì loại túi nilon mỏng gây tác hại lớn hơn đến môi trường.
Kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác cũng cho thấy việc đánh thuế dựa trên số lượng túi sẽ có tác dụng tốt hơn trong việc BVMT. Cách đánh thuế này có nhược điểm là hành thu sẽ khó hơn do các hóa đơn, hợp đồng mua bán túi nilon đều dựa trên khối lượng. Do đó, cần thực hiện thêm một thao tác để quy đổi từ khối lượng sang số lượng túi nilon.
Ông Đậu Anh Tuấn – Trưởng Ban Pháp chế VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu phương pháp đánh thuế dựa trên số lượng túi nhằm đạt được hiệu quả BVMT cao hơn và xem xét đánh thuế một số sản phẩm nhựa plastic khác cũng có nguy cơ tác động lớn đến môi trường như nhựa poly styren dùng làm hộp xốp, thìa nhựa dùng một lần, hộp đựng thực phẩm.