Gia tăng niềm tin của người gửi tiền
Ông Nguyễn Quang Huy |
Sau hơn 15 năm thành lập và phát triển, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đã có những bước tiến dài trong việc triển khai các hoạt động nghiệp vụ, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng - tài chính quốc gia cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền. Điều này càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh ngành Ngân hàng đang diễn ra công cuộc tái cơ cấu mạnh mẽ các TCTD với nhiều áp lực.
Xung quanh vấn đề này, Thời báo Ngân hàng đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Huy, Chủ tịch Hội đồng quản trị BHTGVN.
Thưa Chủ tịch BHTGVN Nguyễn Quang Huy, ông có thể cho biết một vài nhận định về vấn đề tái cơ cấu các TCTD đang được xem là “nóng” trong giai đoạn hiện nay?
Trong gần hai thập kỷ gần đây, Việt Nam đã 3 lần tái cơ cấu hệ thống các TCTD, khởi đầu trong giai đoạn sau khủng hoảng tài chính châu Á từ năm 1998 đến 2003; tiếp theo là giai đoạn bắt đầu gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới 2005-2008 và hiện nay là giai đoạn cơ cấu lại nền kinh tế 2011-2015.
Trong bối cảnh quy mô của hệ thống ngân hàng đang phát triển nhanh (theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, tổng tài sản của hệ thống ngân hàng Việt Nam tương đương 183% GDP năm 2011, mức cao so với một quốc gia có thu nhập trung bình thấp), đi liền với đó là vai trò quan trọng của hoạt động ngân hàng đối với nền kinh tế, quá trình tái cơ cấu lần 3 được đánh giá là "phức tạp hơn".
Điều này đòi hỏi cơ quan quản lý Nhà nước nghiên cứu hoạch định các chính sách quyết liệt, nhưng thận trọng, đảm bảo hài hòa lợi ích của tổng thể nền kinh tế nhưng vẫn đạt được mục tiêu tái cơ cấu hệ thống các TCTD theo hướng an toàn, lành mạnh.
Và thực tế là chúng ta thực hiện tái cơ cấu mà không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng, thưa ông?
Đúng vậy. Thông thường, tái cấu trúc ngân hàng cần một nguồn lực tài chính rất lớn. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), ước tính chi phí tái cơ cấu của Thái Lan,
Indonesia và Hàn Quốc lần lượt là 43,8%, 56,8% và 31,2% trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Để có nguồn lực tái cơ cấu, ba quốc gia này đã phải vay từ các tổ chức tài chính quốc tế với những cam kết rất ngặt nghèo.
Tại Việt Nam, tái cơ cấu các TCTD và xử lý nợ xấu gắn liền với nguyên tắc hạn chế tối đa sử dụng ngân sách Nhà nước. Điều này đặt ra thách thức rất lớn đối với cơ quan chủ trì triển khai thực hiện. Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) đã được thành lập và đến hết năm 2014, VAMC đã mua được khoảng 130.000 tỷ đồng nợ xấu từ các TCTD. VAMC được đánh giá là giải pháp “sáng tạo” của Việt Nam khi giải quyết ngay được nhu cầu làm sạch nợ xấu trên bảng cân đối tài sản của TCTD, đồng thời dành thời gian khoảng 5 năm để TCTD trích lập dự phòng rủi ro và xử lý nợ xấu.
Các nghiên cứu về tái cấu trúc ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ Mỹ bắt đầu từ năm 2007 cho thấy, thông thường, hệ thống ngân hàng được tái cấu trúc khi có khủng hoảng xảy ra. Số lượng ngân hàng được thu hẹp theo hướng các ngân hàng yếu kém sẽ bị quốc hữu hóa, cho phá sản hoặc sáp nhập vào ngân hàng lành mạnh hơn.
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước có thể sử dụng để cứu trợ ngân hàng khá eo hẹp, nhiều quốc gia lựa chọn giải pháp để các ngân hàng quy mô nhỏ thực sự yếu kém phá sản và tập trung nguồn lực để cứu trợ các ngân hàng có tầm quan trọng hệ thống.
Tại Việt Nam, Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015 ban hành kèm theo Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 đã làm rõ quan điểm “không để xảy ra đổ vỡ và mất an toàn hoạt động ngân hàng ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước”.
Quan điểm này đã được thực thi một cách nghiêm túc. Hết năm 2013, 9 ngân hàng thuộc nhóm yếu kém nhất đã có giải pháp tái cơ cấu theo hình thức sáp nhập, hợp nhất hoặc tự cải thiện hoạt động. Sau đó, trong quý II/2015, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã công bố mua lại NHTMCP Xây dựng và NHTMCP Đại Dương với giá 0 đồng.
Trong giai đoạn khó khăn, việc không để xảy ra đổ vỡ ngân hàng đã góp phần không làm xáo trộn nền kinh tế, duy trì niềm tin của nhà đầu tư và góp phần tích cực vào sự hồi phục kinh tế trong thời gian gần đây.
Người dân yên tâm gửi tiền vào ngân hàng một phần cũng nhờ có bảo hiểm tiền gửi |
Nhân đây, ông có thể nói rõ hơn về quyền lợi của người gửi tiền trong quá trình thực hiện tái cơ cấu các TCTD?
Người gửi tiền tiết kiệm, đặc biệt những người gửi tiền nhỏ có ít thông tin, là đối tượng dễ bị “tổn thương” trong quá trình tái cơ cấu các TCTD. Tại các quốc gia, khi nền kinh tế gặp khó khăn, Chính phủ thường cam kết bảo lãnh toàn bộ cho tiền gửi của người dân. Đây là một giải pháp chính sách quan trọng nhằm duy trì niềm tin, ngăn ngừa tình trạng hoảng loạn, rút tiền hàng loạt của người gửi tiền.
Trong giai đoạn gấp rút tái cơ cấu vừa qua, quyền lợi của người gửi tiền đã được bảo vệ. Vào tháng 5/2015, khi NHTMCP Đại Dương được mua lại, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng đã khẳng định việc “đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền”, nhưng đồng thời, cổ đông của ngân hàng sẽ không còn vai trò khi cổ phiếu chỉ có giá 0 đồng.
Đối với người gửi tiền tại các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở (QTDND), người gửi tiền được bảo vệ trong phạm vi hạn mức bảo hiểm tiền gửi. Nguyên tắc quan trọng giúp ổn định hệ thống đã được tuân thủ: người dân dành dụm tiền gửi tiết kiệm vào ngân hàng được bảo vệ, nhà đầu tư vì mục tiêu lợi nhuận phải chia sẻ thiệt hại vì quyết định đầu tư của mình.
Vậy BHTGVN đã phát huy được vai trò của mình như thế nào trong tái cơ cấu các TCTD, thưa ông?
Sau hơn 15 năm thành lập và phát triển, BHTGVN đã từng bước triển khai đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ, bảo vệ cho khoảng 30 triệu tài khoản tiền gửi của người gửi tiền, chi trả kịp thời cho người gửi tiền tại 39 QTDND với tổng số tiền gần 27 tỷ đồng.
Năm 2012, Luật BHTG ra đời tạo nền tảng pháp lý vững chắc để tổ chức BHTG thực hiện tốt hơn chức năng bảo vệ người gửi tiền và góp phần đảm bảo an toàn, lành mạnh hoạt động ngân hàng.
Trên cơ sở Luật, BHTGVN đã tích cực triển khai hoạt động giám sát, cảnh báo sớm rủi ro tiềm ẩn của các tổ chức tham gia BHTG. Đối với các QTDND hoạt động không hiệu quả dẫn đến tình trạng mất khả năng thanh toán, để đảm bảo quyền lợi người gửi tiền, BHTGVN tiến hành chi trả cho người dân một cách sớm nhất.
Thực tiễn đã chứng minh việc chi trả kịp thời, đáp ứng được mong đợi của người gửi tiền góp phần giải tỏa tâm lý bất an, từ đó ngăn chặn khả năng rút tiền hàng loạt và nguy cơ lan truyền hệ thống.
Bên cạnh đó, thực tế trong quá trình sáp nhập, hợp nhất đã xuất hiện không ít những thông tin trái chiều về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng khiến tâm lý người gửi tiền bị ảnh hưởng. Trước bối cảnh đó, BHTGVN đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền chính sách, pháp luật về BHTG để tăng cường niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng. Đồng thời, BHTGVN triển khai hướng dẫn các thủ tục cấp đổi và thu hồi Chứng nhận BHTG cho các TCTD sáp nhập, hợp nhất nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của người gửi tiền tại tổ chức này.
Trong bối cảnh chung tái cơ cấu các TCTD, BHTGVN xác định là một công cụ đắc lực của NHNN trong việc thực thi nhiệm vụ chung của Ngành thông qua việc tham gia tái cơ cấu hệ thống QTDND. Theo quy định của pháp luật hiện hành, BHTGVN có thể tham gia kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia BHTG theo quy định của NHNN.
Đây là điều khoản cho phép BHTGVN có thể tham gia sâu hơn, chủ động hơn vào quá trình tái cơ cấu hệ thống QTDND trong tương lai theo chỉ đạo của NHNN.
Theo ông, đâu là những thách thức cần giải quyết trong thời gian tới?
Trong thời gian vừa qua, Quốc hội và Chính phủ đã có những đánh giá tích cực về hiệu quả của quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD, coi đây là điểm sáng trong bức tranh tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế. Mặc dù vậy, vẫn còn có nhiều lo ngại về một số nội hàm của quá trình tái cơ cấu.
Ví dụ, việc tái cơ cấu đồng thời không để xảy ra đổ vỡ có thể gây ra rủi ro đạo đức, khiến cổ đông lớn và các bên có liên quan có thể chấp nhận rủi ro cao hơn với tâm lý, khi rủi ro đã có Nhà nước xử lý. Việc xử lý nợ xấu thông qua VAMC dù đã có những tiến triển, nhưng chủ yếu vẫn trong giai đoạn chuyển nợ xấu từ ngân hàng sang VAMC và cần có thêm những bước đi tích cực hơn.
Việc quyết định lựa chọn và áp dụng một chính sách luôn có tính hai mặt, giống như hai mặt của một đồng tiền. Vấn đề là cơ quan hoạch định chính sách có được dự báo chính xác và khả năng quản trị rủi ro đối với những yếu tố ngược chiều có thể phát sinh khi thực thi chính sách. Với đặc điểm chính trị xã hội nước ta trong giai đoạn hiện nay và trong bối cảnh nguồn lực phục vụ tái cơ cấu còn hạn chế, thách thức đặt ra đối với cơ quan quản lý ngành Ngân hàng không hề nhỏ.
Tuy nhiên, những kết quả đáng khích lệ trong việc duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát trong thời gian vừa qua; cùng với những dự báo khả quan về triển vọng kinh tế Việt Nam trong trung hạn của các tổ chức quốc tế đã khẳng định thành công bước đầu của quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD. Đây là động lực để toàn ngành Ngân hàng có những bước đi vững chắc hơn, toàn diện hơn đối với lĩnh vực này trong thời gian tới.
Trân trọng cảm ơn ông về cuộc trao đổi này!