Giáo dục bắt đầu hấp dẫn vốn ngoại
Đầu tư dài hạn hút khách
Đầu tháng 6 vừa qua, Trường Đại học Anh quốc - British University Vietnam (BUV) đã chính thức khởi công xây dựng cơ sở mới tại Khu đô thị Ecopark, tỉnh Hưng Yên. Với tổng vốn đầu tư 70 triệu USD, được xây dựng trên diện tích 6,5 ha, dự án BUV Hưng Yên được xem là một trong những dự án FDI lớn nhất vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo tại Việt Nam hiện nay. Dự án này hứa hẹn sẽ đáp ứng nhu cầu học tập cho hơn 7.000 sinh viên, mang đến cho địa phương một cơ sở học tập đẳng cấp quốc tế với bằng cấp, chứng chỉ được công nhận toàn cầu.
Một góc thư viện Đại học RMIT Vietnam tại quận 7, TP. Hồ Chí Minh |
Trước khi BUV Hưng Yên khởi công xây dựng một tuần, tại Đà Nẵng, Tập đoàn KinderWorld (Singapore) cũng đã chính thức khánh thành giai đoạn 1 của dự án Khu phức hợp giáo dục Pegasus. Khu phức hợp này được đầu tư với tổng nguồn vốn 12 triệu USD trên quy mô 5,1 ha.
Theo kế hoạch đầu tư của KinderWorld, hai cơ sở trường học đã hoàn thành sẽ bắt đầu chiêu sinh ngay trong năm 2015. Trong đó, Trường Cao đẳng quốc tế Pegasus sẽ tập trung đào tạo các ngành: quản trị khách sạn, du lịch, ẩm thực, quản trị kinh doanh và trở thành trường cao đẳng quốc tế đầu tiên tại Đà Nẵng phát triển các chương trình đào tạo dài hạn mang tiêu chuẩn chất lượng giáo dục hiện đại nhất tại khu vực ASEAN.
Những thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ KH&ĐT) cho thấy rằng tính đến cuối tháng 5/2015, mặc dù tổng vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục mới chỉ đạt con số khiêm tốn là trên 822 triệu USD với 213 dự án. Tuy nhiên, điều đáng mừng là so với vài năm trước đây chất lượng đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giáo dục có sự cải thiện rõ rệt, thể hiện ra bằng việc ngày càng có nhiều tập đoàn trường học ở các nước có nền giáo dục phát triển đến đầu tư tại Việt Nam.
Thay vì chỉ tập trung đầu tư vào các đô thị lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh và chỉ đầu tư các dự án ngắn hạn thì hiện nay các tập đoàn này đã bắt đầu vươn đến các tỉnh thành khác và phát triển các dự án dài hạn như trường đại học, cao đẳng quốc tế.
Chẳng hạn, chỉ tính riêng Tập đoàn KinderWorld, đến thời điểm đầu tháng 6/2015, tập đoàn này đã đầu tư vận hành 15 trường học tại nhiều tỉnh thành trên cả nước. Trong đó có thể kể đến hệ thống Trường Quốc tế Singapore, Trường Mẫu giáo quốc tế KinderWorld, Trường Quốc tế Việt Nam Singapore… được đầu tư tại các địa phương như Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh Vũng Tàu, Bình Dương… KinderWorld cũng đang lên kế hoạch đầu tư thêm các trường học tại hai tỉnh Nam Trung bộ là Khánh Hòa, Bình Định.
Trong khi đó, Tập đoàn RMIT (Australia) cũng đã đầu tư khoảng 41,1 triệu USD vào dự án các trường đại học RMIT tại Việt Nam, dự kiến sẽ mở rộng cơ sở ra các thành phố khác ngoài Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Cạnh tranh mạnh với trường nội
Theo Cục Đầu tư nước ngoài, trong vòng 5 năm trở lại đây các cơ sở đào tạo có vốn FDI phát triển nhanh cả số lượng và chất lượng. Nếu trước năm 2007, tổng nguồn vốn bình quân của mỗi dự án chỉ đạt khoảng 450-600 ngàn USD thì hiện nay những dự án trị giá 40-50 triệu USD trở lên phổ biến. Các trường quốc tế ở tất cả các cấp học từ mẫu giáo đến đại học được người dân các thành phố lớn chọn lựa cho con em theo học ngày một nhiều. Điều này tạo ra môi trường cạnh tranh lớn trong hệ thống giáo dục Việt Nam, đòi hỏi các trường học nội địa phải thay đổi theo hướng quốc tế hóa đội ngũ giáo viên giảng dạy và chuẩn hóa kiến thức, phương pháp dạy-học phù hợp tiêu chuẩn quốc tế.
Ghi nhận từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị định 73/2012 về lập và hoạt động của các cơ sở văn hóa, giáo dục nước ngoài tại Việt Nam, đến cuối năm 2014, trên cả nước có gần 250 chương trình liên kết với nước ngoài đã được Bộ GD&ĐT cấp phép. Trong thời gian vài năm gần đây, với sự xuất hiện của các trường học tư thục nước ngoài như RMIT và Fulbright cộng với việc hỗ trợ tài chính từ WB, ADB cho các chương trình đào tạo liên kết của Đại học Việt - Đức, Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội… mức độ cạnh tranh trong việc chọn lựa môi trường học tập ngày càng trở nên gay gắt vì độ chênh lệch về học phí cũng như chi phí học tập được thu hẹp.
Trong khi đó, ở trong nước nhằm tái cấu trúc ngành giáo dục, đầu năm 2015 vừa qua Chính phủ đã ban hành chính sách khuyến khích các trường đại học dân lập chuyển sang mô hình tư thục đồng thời thí điểm thực hiện chương trình đại học công lập tự chủ về tài chính ở 6 trường đại học lớn. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi mô hình hoạt động ở các trường công lập, dân lập đang gặp phải những trở ngại liên quan đến định giá tài sản và những bất cập trong quy định hạn chế doanh thu từ hoạt động mở rộng đào tạo.
Như vậy, trong bối cảnh ngành giáo dục trong nước vẫn đang lúng túng trong việc tái cơ cấu, những thay đổi về mức học phí và quyền lợi của người học như: học bổng, môi trường học tập, chất lượng đào tạo, giá trị bằng cấp… chưa được chuẩn hóa thì sức cạnh tranh của các trường học trong nước sẽ giảm so với các trường quốc tế cùng cấp đào tạo. Chính điều này cũng sẽ khiến cho các tập đoàn giáo dục đa quốc gia tiếp tục mở rộng đầu tư vào trường học tại Việt Nam khi các dự án ban đầu gặt hái được nhiều lợi nhuận.