Lo cửa mở quá nhanh cho thị trường dịch vụ
Đưa dịch vụ ngân hàng vào giáo dục | |
Ngân hàng Việt nên cân nhắc dịch vụ FinTech | |
Phí dịch vụ logistics cao, thiệt đôi đường |
Theo thống kê năm 2015, lĩnh vực dịch vụ chiếm 45% tổng GDP toàn quốc. Tuy nhiên, đây vẫn là con số khiêm tốn so với đóng góp từ 70% - 80% của lĩnh vực này vào GDP của nhiều nước phát triển trên thế giới. Điều này cho thấy còn khoảng trống rất lớn cho đầu tư dịch vụ, vấn đề là NĐT trong nước có thể phát triển được lĩnh vực này không, khi mà cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) sẽ tiếp tục mở ra rất nhiều thuận lợi cho NĐT nước ngoài.
“Vô ý” mở cửa cho NĐT nước ngoài
Theo khảo sát so sánh cam kết mở cửa thị trường dịch vụ của Việt Nam trong WTO, TPP và EVFTA do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện, trong 98 nhóm lĩnh vực dịch vụ được rà soát thì đa số đã phù hợp với các FTA kể trên. Bà Nguyễn Thị Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập (VCCI) cho biết, cụ thể đã có 85 nhóm tương thích với cam kết WTO, 81 nhóm tương thích với TPP và với EVFTA có 84 nhóm.
Tuy nhiên, bà Trang cũng cho biết, sau 10 năm thực hiện WTO vẫn có tới 10 lĩnh vực luật pháp Việt Nam chưa tương thích, thể hiện tốc độ chậm chạp của Việt Nam để thích ứng với các FTA.
Có những nhóm lĩnh vực mà chúng ta đang “vô ý” mở cửa cho NĐT nước ngoài |
Trong khi đó với TPP và EVFTA, tuy là 2 FTA mới nhất vẫn đang trong vòng đàm phán, thì số lĩnh vực chưa tương thích lại khá thấp, tương ứng 14 và 11 lĩnh vực. Giải thích cho điều này, bà Trang cho rằng có những nhóm lĩnh vực mà chúng ta đang “vô ý” mở cửa cho NĐT nước ngoài. Nghĩa là trong đàm phán thì chúng ta cố gắng để giữ nhưng pháp luật trong nước thì lại không hề có quy định cụ thể với NĐT nước ngoài, dẫn tới tình trạng “mở cửa vô ý”.
Lấy ví dụ trong trường hợp này như việc chúng ta không có quy định điều kiện đầu tư riêng ở các lĩnh vực giải trí, kinh doanh trò chơi điện tử; dịch vụ thú y; bảo vệ, duy trì và tu bổ di sản vật thể; võ thuật khí công, thể thao mạo hiểm; dịch vụ phục vụ bữa ăn trên máy bay… Hoặc chúng ta không quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh với điều tra, đánh giá rừng tự nhiên, khai mỏ, đóng gói hàng hóa, hội chợ triển lãm, phân phối băng đĩa.
“Điều này có nghĩa là chúng ta mở cửa vì chúng ta không có quy định điều kiện đầu tư riêng với NĐT nước ngoài, chứ không phải vì chúng ta muốn để họ vào”, bà Trang khẳng định.
Theo đó, nhóm rà soát khuyến cáo các mục tiêu để Việt Nam tham gia các FTA mà không bị “hớ”. Đó là cần mở cửa đúng cam kết, nhưng cũng phải mở cửa một cách khôn ngoan, có ý thức, mở cửa một cách minh bạch và hợp lý; với những điều pháp luật Việt Nam chưa tương thích với các cam kết thì cần sửa pháp luật để phù hợp với những cam kết mở cửa.
Việt Nam đang đi xa hơn WTO
Là người trực tiếp tham gia đàm phán các hiệp định WTO năm 2007, đến nay là hiệp định TPP, ông Ngô Công Khanh, Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương lại cho rằng Việt Nam đang tuân thủ rất tốt WTO. “Việt Nam được đánh giá là một trong những nước thực thi hiệp ước WTO nghiêm túc nhất. Đây cũng là lý do vì sao chúng ta được mời để tham gia đàm phán hiệp định TPP”, ông Khanh khẳng định.
Theo ông Khanh, từ WTO đến TPP là một bước tiến dài và rất xa của Việt Nam trong việc mở cửa các lĩnh vực đầu tư nói chung và thị trường dịch vụ nói riêng, tiến từ phương pháp đàm phán chọn – cho đến phương pháp đàm phán chọn – bỏ.
Cụ thể, trong WTO chúng ta có những hạn chế, nhưng không phải cam kết một cách vô thức mà tiếp cận một cách thận trọng để giữ cho các cam kết sau này và tâm lý của chúng ta là mất càng ít càng tốt. Còn tới TPP quan điểm đàm phán của chúng ta là chỉ cần giữ cái gì cần giữ, chúng ta chọn bỏ chứ không “chọn lấy được” như WTO.
Cũng theo ông Khanh, “thực tế Việt Nam đang đi xa hơn WTO rất nhiều, chính sách thông thoáng hơn, đặc biệt ở lĩnh vực dịch vụ”. Ví dụ điển hình cho vấn đề này là dịch vụ cầm đồ ở Việt Nam hiện không do các tổ chức tài chính đứng đầu, không do Ngân hàng Nhà nước quản lý mà cho đối tác nước ngoài tham gia, chỉ cần họ không vi phạm pháp luật Việt Nam. Lĩnh vực này chưa hề được đề cập trong cam kết WTO. Đây là tiến bộ về tài chính được rất nhiều nước quan tâm trong quá trình đàm phán.
Nhận định về cách thức áp dụng TPP và EVFTA trong thời gian tới, ông Khanh cho biết, không cần sửa bất cứ văn bản luật nào mà sẽ áp dụng trực tiếp những cam kết trong TPP vào thực tế. Nghĩa là chúng ta cam kết gì trong TPP sẽ phải thực thi đúng những cam kết đó trong thực tiễn với những nước cùng tham gia đàm phán. Vì vậy, tất cả các bộ, ngành, địa phương phải hiểu chính xác, hiểu đúng về những cam kết trên.
Trước đề xuất của VCCI cần sửa luật pháp Việt Nam cho tương thích với FTA, đồng quan điểm với ông Khanh, ông Phạm Mạnh Dũng, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Để sửa luật pháp Việt Nam cho tương thích với các FTA là rất khó, bởi làm vậy có lẽ chúng ta phải bỏ một loạt luật ở Việt Nam.
Ông Dũng cho rằng cái khó nhất, vướng nhất ở Việt Nam hiện nay là mỗi cơ quan, địa phương lại có một cách hiểu khác nhau về ngôn từ trong các cam kết FTA, dẫn tới tình trạng thực thi khác nhau, mỗi địa phương một kiểu gây khó cho cả NĐT trong và ngoài nước. Vì thế ông Dũng mong muốn có thể phổ biến đầy đủ, chính xác các cam kết này tới từng địa phương, ban, ngành. Đó mới là mấu chốt để thực hiện đúng các cam kết trong thời gian tới.