May đo chính sách để giảm nghèo bền vững
Chuyển tải kịp thời nguồn vốn chính sách đến với người nghèo | |
Tín dụng chính sách: Hỗ trợ tích cực giảm nghèo bền vững | |
Ninh Bình phát huy hiệu quả tín dụng chính sách |
Đó là một trong những khuyến nghị mà Báo cáo Nghèo đa chiều ở Việt Nam với chủ đề “Giảm nghèo ở tất cả các chiều cạnh để đảm bảo cuộc sống có chất lượng cho mọi người” đưa ra.
Đói nghèo vẫn tồn tại ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số |
Đây là báo cáo sâu đầu tiên về nghèo đa chiều, hướng tới mục tiêu số 1 của Mục tiêu thiên niên kỷ là xóa đói giảm nghèo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Bộ LĐ-TB&XH), Trung tâm Phân tích Dự báo - Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Tổng cục Thống kê, Viện nghiên cứu phát triển Mê Kông và Chương trình phát triển Liên hợp quốc hợp tác nghiên cứu.
Báo cáo khẳng định những tiến bộ ấn tượng của Việt Nam trong thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững số 1 (SDG1). Trong số 17 mục tiêu phát triển bền vững mà Việt Nam cam kết đạt được vào năm 2030, SDG1 về "giảm nghèo ở mọi chiều cạnh và ở mọi nơi" có khả năng đạt được cao nhất.
Ông Nguyễn Thắng - đại diện nhóm nghiên cứu cho biết tỷ lệ nghèo dù đo lường bằng thước đo nào cũng đều giảm mạnh trong giai đoạn 2012 - 2016. Theo đó, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 18,1% năm 2012 xuống còn 10,9% năm 2016. Tỷ lệ nghèo chi tiêu giảm từ 17,2% xuống 9,8%, nghèo thu nhập giảm từ 12,6% xuống còn 7,0%. Tỷ lệ nghèo cùng cực giảm mạnh từ 49,2% năm 1992 xuống còn 2% vào năm 2016.
Thành tích về giảm nghèo đã giúp Việt Nam đứng thứ 57 trong tổng số 193 nước thành viên của Liên hợp quốc về chỉ số mục tiêu phát triển bền vững năm 2018, tăng 9 bậc so với xếp hạng năm 2017.
Bà Caitlin Wiesen - Quyền Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam đánh giá, những kết quả giảm nghèo tại Việt Nam là “thành công ở tầm thế giới”, được công nhận rộng rãi trên toàn cầu là do Việt Nam tăng trưởng bao trùm, tạo việc làm cho người dân, tiếp cận tương đối công bằng với các dịch vụ xã hội cơ bản. Các chương trình mục tiêu và chính sách bảo trợ xã hội đã giúp những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương cải thiện sinh kế và chất lượng cuộc sống.
Mặc dù vậy, Báo cáo cũng chỉ ra đói nghèo vẫn tồn tại ở nhiều khu vực, đặc biệt là ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ nghèo đa chiều ở vùng núi phía Bắc và Tây Nguyên cao gấp 2 lần so với mức trung bình của cả nước. Trong khi tỷ lệ nghèo đa chiều năm 2016 của dân tộc Kinh là 6,4% thì tỷ lệ này ở một số nhóm dân tộc thiểu số cao hơn nhiều như dân tộc H’Mông, Dao và Khmer. Khoảng cách nghèo đói tính theo các chiều về chi tiêu, thu nhập, giáo dục giữa dân tộc Kinh và các dân tộc thiểu số ngày càng gia tăng trong giai đoạn nghiên cứu 2012 – 2016.
Chỉ ra sự thiếu hụt trong giáo dục người lớn, báo cáo cũng cho thấy tỷ lệ hộ nghèo đa chiều cao nhất là ở các hộ gia đình mà chủ hộ làm trong lĩnh vực nông nghiệp, tiếp theo là các hộ có chủ hộ là lao động không có kỹ năng. Các hộ gia đình có chủ hộ là thư ký, nhân viên văn phòng và lao động có kỹ năng có tốc độ giảm nghèo đa chiều nhanh nhất. Các hộ nghèo có người khuyết tật được tiếp cận ít hơn với cơ hội giáo dục và việc làm so với mức trung bình của cả nước.
Điểm đáng lưu ý khác là tốc độ giảm nghèo chung cũng như giảm nghèo theo các chiều rất khác nhau giữa các nhóm dân tộc thiểu số. Trong khi nhóm có tỷ lệ nghèo tương đối thấp như Mường, Tày, Thái có tỷ lệ giảm nghèo nhanh thì ở một số dân tộc khác như H’Mông, Gia Rai, Xơ Đăng lại có tỷ lệ nghèo cao và tốc độ giảm nghèo chậm. Sự chậm này do cơ cấu thu nhập chủ yếu đến từ tỷ lệ thu nhập có do trồng trọt và chăn nuôi cao, trong khi nhóm giảm nghèo nhanh cơ cấu thu nhập chủ yếu từ tiền lương và hoạt động phi nông nghiệp.
Bên cạnh đó, báo cáo cũng chỉ ra, đối tượng nghèo ở cả ba tiêu chí thường ở những người tuổi trên 50 và điểm lạ là ở những người trẻ tuổi, dù không nghèo về thu nhập song họ lại không sử dụng thu nhập ấy để phục vụ nhu cầu đời sống nên vẫn nghèo đa chiều.
Từ thực tế đó, để giảm bớt khoảng cách nghèo giữa các vùng miền và nhóm dân tộc, bà Caitlin Wiesen khuyến nghị, Việt Nam cần mở rộng dịch vụ xã hội và bảo trợ xã hội theo hướng phổ quát, năng lực phát triển kinh doanh của đồng bào dân tộc thiểu số cần được tăng cường. Cùng với đó là tiếp cận tài chính, ươm mầm khởi nghiệp và thị trường. “Việt Nam có thể tiếp tục giảm nghèo thành công hay không phụ thuộc vào khả năng đảm bảo tăng trưởng bao trùm tạo công ăn việc làm tốt hơn cho người dân và hỗ trợ hiệu quả những người bị bỏ lại xa nhất”, bà Wiesen nhấn mạnh.
Khuyến nghị chính sách cần 2 trụ cột tăng trưởng bao chùm và giảm nghèo đa chiều, ông Thắng cũng nhấn mạnh nên hướng chính sách can thiệp vào hai nhóm sản xuất nông nghiệp và ít kỹ năng. Đặc biệt để hóa giải nút thắt trong sản xuất nông nghiệp cần đưa công nghệ số vào phát triển tới an toàn thực phẩm, kết nối thị trường.
Đứng trên giác độ của cơ quan quản lý Nhà nước, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Thị Hà khẳng định, trong thời gian tới, Việt Nam tiếp tục xác định mục tiêu giảm nghèo cho tất cả mọi người ở mọi nơi và đảm bảo an sinh xã hội phải được thực hiện kiên trì, thường xuyên, huy động được sự hợp tác có hiệu quả của các khu vực kinh tế. “Mặc dù chính sách hỗ trợ của nhà nước là cần thiết và quan trọng nhưng chúng ta cũng cần làm cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số nhận thức rõ mình chính là chủ thể của tiến trình giảm nghèo, để có trách nhiệm hơn nữa trong vươn lên thoát nghèo”, Thứ trưởng Hà nhấn mạnh.