Nền kinh tế có thể tăng tốc nhanh hơn?!
Kinh tế phi chính thức: Cần phân loại để tiếp cận | |
Kinh tế Việt Nam: Triển vọng tích cực, dù thách thức cũng không nhỏ | |
WB dự báo kinh tế VN tăng trưởng 6,8% năm nay |
Trái với dự báo mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB) về việc tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ giảm dần xuống 6,6% và 6,5% cho các năm 2019 – 2020, Trung tâm Thông tin & Dự báo Kinh tế - xã hội quốc gia (NCIF) thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư vừa đưa ra nhận định, GDP sẽ tăng trưởng khoảng 6,9-7,1% trong 2 năm sắp tới, cao hơn cả giai đoạn 2016-2018.
Cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch tích cực |
Tăng trưởng vẫn có thể đạt mức cao
Đánh giá về tình hình kinh tế Việt Nam 2016-2018, TS. Đặng Đức Anh - Trưởng Ban Phân tích và Dự báo (NCIF) nhấn mạnh, ổn định kinh tế vĩ mô là điểm sáng khá rõ nét của giai đoạn này. Trong 3 năm qua lạm phát được kiềm chế ở mức dưới 4% là thành công của Chính phủ. Trong đó có đóng góp của NHNN trong việc điều hành tỷ giá dù bối cảnh tâm lý thị trường vẫn khá bất ổn và một số yếu tố nội tại của nền kinh tế tuy đã cải thiện nhưng chưa thực sự bền vững. Chính sách tiền tệ có sự linh hoạt, thận trọng nhất định cũng hỗ trợ duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó có cơ hội ổn định mặt bằng lãi suất.
Nghiên cứu của NCIF chỉ ra rằng, tốc độ tăng trưởng và cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực, đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp được cải thiện. Các yếu tố tích cực khác là cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, cả giai đoạn đạt mục tiêu thâm hụt thương mại dưới 3% kim ngạch xuất khẩu. Thị trường chứng khoán có điều chỉnh theo hướng ổn định hơn so với thời kỳ tăng trưởng nóng. Ngân sách và nợ công so với giai đoạn trước có cải thiện nhất định, thể hiện ở cơ cấu thu ngân sách đã dựa ít hơn vào tỷ trọng thu từ dầu thô, song dựa nhiều hơn vào thu từ tiền sử dụng đất. Nguồn thu không tái tạo đang có xu hướng mở rộng và là rủi ro thời gian tới. Quy mô GDP được cải thiện, giảm bảo lãnh nên nợ công được duy trì ở mức ổn định.
Tỷ trọng chi thường xuyên đã có bước tiến bộ là giảm, nhưng do vay nợ khá nhiều, đặc biệt giai đoạn 2011 – 2015, nên tỷ trọng trả nợ có xu hướng tăng. Kéo theo đó chi đầu tư không có sự cải thiện, thậm chí có xu hướng giảm sút. TS. Đặng Đức Anh lưu ý, điểm đáng lo ngại trong tăng trưởng dài hạn là giai đoạn 2016 – 2018 hầu như không có công trình đầu tư quy mô lớn, tạo nền tảng cho giai đoạn tới.
Tóm lại, TS. Đặng Đức Anh nhận định giai đoạn 2016 – 2018 tăng trưởng của kinh tế Việt Nam cải thiện về số lượng, nhưng chất lượng chưa có chuyển biến rõ nét. Điều này thể hiện ở việc tăng trưởng vẫn dựa vào vốn, năng suất lao động cải thiện nhưng chưa cao, nền kinh tế phụ thuộc vào ngành công nghiệp chế biến chế tạo nhưng vẫn trong phân khúc thấp…
Từ đó, NCIF đưa ra nhận định về 3 trụ cột sẽ là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2019-2020, đồng thời cũng là động lực cho giai đoạn 2021 – 2025. Đó là phát triển khu vực tư nhân; cải cách thể chế và môi trường kinh doanh; khoa học công nghệ và nâng cao năng suất lao động.
“Mặc dù các tổ chức quốc tế dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt trung bình 6,5 – 6,6% giai đoạn 2019 – 2020 trước tác động không thuận lợi từ quốc tế, song nếu tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô và thu hút FDI, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế thì chúng tôi thấy có tác động tích cực. Cùng với việc thực hiện các FTA thì tốc độ tăng trưởng có thể đạt khoảng 6,9%. Đặc biệt nếu cải cách mạnh mẽ khu vực DNNN thì có thể tăng trưởng cao hơn”, TS. Đặng Đức Anh kết luận.
Hậu thuẫn từ kinh tế thế giới
Bên cạnh những diễn biến của kinh tế trong nước, nghiên cứu của NCIF cho thấy tình hình kinh tế thế giới trong ngắn hạn sẽ mang lại những tác động tích cực tới Việt Nam, là yếu tố hậu thuẫn cho tăng trưởng giai đoạn 2019-2020.
TS. Trần Toàn Thắng - Trưởng Ban Kinh tế Thế giới chia sẻ, tình hình thế giới giai đoạn tới cực kỳ khó đoán định. Song rõ ràng xu hướng chung trong năm 2019 có khá nhiều yếu tố thuận lợi với Việt Nam, là động lực để Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng trong thời gian tới.
Ông Thắng phân tích, nền kinh tế trong nước đang phải chịu nhiều tác động từ biến động tỷ giá; biến động trên thị trường chứng khoán; diễn biến thương mại phức tạp; thâm hụt thương mại của Mỹ tiếp tục tăng; dòng chảy FDI từ Trung Quốc không rõ ràng; phong trào Brexit; các FTA song phương và đa phương; tác động của CPTPP…
Tuy nhiên, dự báo giai đoạn 2018 - 2019 nếu các diễn biến vẫn bình thường như giai đoạn vừa qua thì môi trường thế giới tạo thuận lợi cho kinh tế Việt Nam. “Nhiều người cho rằng thương mại thế giới giảm đi do tác động của chiến tranh thương mại và một số điểm khác làm tăng trưởng chung giảm xuống. Nhưng trong thực tế khi tổng kết thương mại và đầu tư của Việt Nam từ năm 2016 trở lại đây thì chúng tôi thấy Việt Nam đang đi theo ngách được hưởng lợi chứ không thiệt hại quá nhiều”, ông Thắng cho hay.
Phân tích sâu hơn về các diễn biến chính của kinh tế thế giới, TS. Trần Toàn Thắng cho biết, xu hướng chung của các nền kinh tế lớn là tăng trưởng kinh tế giảm đều song không quá đột biến, trừ một số quốc gia như Hàn Quốc, Nga có thể tăng một chút. Về thương mại toàn cầu tăng trưởng không nhiều nữa nhưng cũng không giảm quá nhiều, dao động ở mức 4,7 đến trên 5%.
Về giá cả hàng hoá, NCIF nhận định một trong những lý do góp phần giúp Việt Nam giữ mức lạm phát thấp là tăng trưởng giá cả thương mại toàn cầu không nhiều làm yếu tố chi phí đẩy của lạm phát giảm đi. “Chúng tôi đã xem xét các dự báo khác của giá cả, thương mại hàng hoá thế giới giai đoạn 2019-2020 không có gì thay đổi nhiều, nên tác động tới Việt Nam tương đối thuận lợi”, ông Thắng bổ sung.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, xu hướng tại Việt Nam là vốn đầu tư trực tiếp đang giảm so với cao điểm năm 2015, tuy nhiên vốn đầu tư theo hình thức M&A lại tăng lên. Nhìn rộng hơn trên góc độ toàn thế giới, dòng vốn FDI đang có xu hướng chung là tăng lên, và dự báo dòng chảy này tiếp tục được duy trì trong các năm 2019-2020. Đồng thời với việc các FTA quan trọng như CPTPP, EVFTA có hiệu lực, sẽ có tác động tích cực đối với thu hút vốn nước ngoài của Việt Nam.
Với những dự báo tương đối tích cực như vậy, TS. Lương Văn Khôi, Phó giám đốc NCIF đưa ra kết luận, nếu chúng ta có giải pháp tận dụng tốt cơ hội, ứng phó được với các rủi ro thì những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô giai đoạn 2016-2020 sẽ đạt được, thậm chí vượt ở một số chỉ tiêu. Đó là nền tảng quan trọng để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2026.