WB dự báo kinh tế VN tăng trưởng 6,8% năm nay
Báo cáo nhận định cho dù có những trở lực từ bên ngoài, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã chứng tỏ sự vững vàng, chủ yếu nhờ vào sức cầu mạnh trong nước kết hợp với sự năng động của các ngành chế biến, chế tạo theo định hướng xuất khẩu.
Báo cáo Điểm lại cũng cho biết, mức tăng trưởng dự báo 6,8% của Việt Nam cho năm nay cao hơn mức 6,3% mà WB dự báo cho các thị trường mới nổi ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương.
Nhìn về trung hạn, báo cáo dự báo tăng trưởng của Việt Nam dự kiến sẽ đi theo xu hướng giảm của kinh tế toàn cầu. Cụ thể, dự báo tăng trưởng kinh tế sẽ giảm 6,6% và 6,5% cho các năm 2019 và 2020. Lạm phát dự kiến vẫn được duy trì ở mức 4% do chính sách tiền tệ nhiều khả năng sẽ được thắt chặt.
“Cho dù bối cảnh toàn cầu có nhiều thách thức, Việt Nam tiếp tục đạt tăng trưởng vững, song song với lạm phát ở mức vừa phải và tỷ giá tương đối ổn định,” theo ông Ousmane Dione, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam. “Các nhà hoạch định chính sách nên tận dụng lợi thế trong lúc động lực tăng trưởng còn đang thuận lợi để đẩy mạnh cải cách cơ cấu nhằm tăng cường đầu tư và tăng trưởng dựa trên khu vực tư nhân, song song với cải thiện hiệu suất đầu tư công.”
Báo cáo cũng chỉ ra rằng triển vọng trên vẫn tiềm ẩn những rủi ro đang tích tụ, theo hướng xấu đi. Trong bối cảnh thương mại Việt Nam có độ mở cao, dư địa chính sách tài khóa và tiền tệ còn hạn chế, Việt Nam vẫn dễ bị ảnh hưởng bởi những biến động bên ngoài.
Căng thẳng thương mại toàn cầu leo thang có thể dẫn đến suy giảm nhu cầu về các mặt hàng xuất khẩu, đồng thời thanh khoản trên toàn cầu bị thắt chặt có thể làm giảm dòng vốn đầu tư cũng như đầu tư nước ngoài. Trong nước, cải cách doanh nghiệp nhà nước và khu vực ngân hàng chậm lại có thể ảnh hưởng đến viễn cảnh tăng trưởng và gia tăng các nghĩa vụ cho khu vực công.
Ông Sebastian Eckardt, Chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam nhận định: “Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc, căng thẳng thương mại đang diễn ra và rủi ro tài chính tăng cao đang che mờ triển vọng toàn cầu. Là một nền kinh tế mở, Việt Nam cần duy trì CSTT có khả năng ứng phó, tỷ giá linh hoạt và bội chi ngân sách thấp để nâng cao khả năng chống chịu những cú sốc bên ngoài có thể diễn ra”.
Trong bối cảnh CPTPP và EVFTA sắp có hiệu lực, báo cáo “Điểm lại” lần này cũng dành phần chuyên đề đặc biệt để tập trung bàn về việc đơn giản hóa các biện pháp phi thuế quan nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam.
Phần chuyên đề này nhận định rằng, mặc dù thuế quan đang giảm nhanh nhưng số lượng các biện pháp phi thuế quan lại đang tăng lên. Mức thuế ưu đãi bình quân của Việt Nam đã giảm từ 13,1% năm 2003 xuống còn 6,3% năm 2015. Ngược lại, số lượng các biện pháp phi thuế quan lại tăng đến trên 20 lần trong cùng kỳ. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các biện pháp phi thuế quan - nếu được thiết kế và triển khai không tốt - có thể gây hạn chế thương mại, làm méo mó giá cả, và suy yếu năng lực cạnh tranh quốc gia.
Cũng theo báo cáo, hệ thống các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam vẫn còn phức tạp, chưa rành mạch và tốn kém, dẫn đến chi phí tuân thủ cao. Đơn cử, một nghiên cứu đưa ra ước tính rằng, thuế quan trị giá tương đương của các biện pháp vệ sinh dịch tễ mà Việt Nam đang áp cho hàng nhập khẩu hiện ở mức 16,6%, so với mức bình quân là 8,3% ở các quốc gia ASEAN.