Nguyên nhân khiến hàng giả tràn lan
Chống hàng giả, cuộc chiến cam go |
Chỉ vì giá mà trâu hóa bò?
Thông tin về hàng ngàn tấn thịt trâu sau khi được nhập khẩu về hóa thành thịt bò để tiêu thụ trong nước, đặc biệt là vào các bếp ăn công nghiệp mà báo chí đưa ra cuối năm 2014 đã có con số cụ thể.
Tại buổi tọa đàm trực tuyến “Chống hàng giả: Cần sự quyết liệt của nhiều ngành” do Cổng thông tin điện tử Chính phủ tổ chức vừa qua, ông Nguyễn Văn Cẩn - Phó tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan, Chánh văn phòng Ban chỉ đạo 389/QG cho biết: Thông qua các tờ khai hồ sơ hải quan, có tới 26 nghìn tấn thịt trâu nhập khẩu vào Việt Nam trong năm 2014. Tuy nhiên trên thị trường, dường như không thấy ai bán thịt trâu nhập khẩu cả. Thay vào đó, bò Úc, bò Mỹ thì người dân lại thấy nhiều vô kể. Liệu có phần nào trong số đó nằm trong lượng thịt trâu nhập khẩu trên?
Ở đây chúng ta không bàn về vấn đề chất lượng (bởi số thịt trâu trên đều được nhập khẩu hợp pháp, có giấy phép và được thông quan nên chất lượng có thể tạm tin tưởng). Vấn đề muốn đặt ra ở đây nằm ở khâu tiêu thụ. Tại sao thịt trâu khi đưa vào tiêu thụ trên thị trường hay vào các bếp ăn tập thể lại phải trở thành thịt bò?
Mấu chốt vấn đề có lẽ nằm ở giá cả. Thử hình dung mỗi kg thịt trâu nhập khẩu về có giá khoảng 40 nghìn đồng, nhưng nếu được “hô biến” thành thịt bò, giá trung bình không dưới 100 nghìn đồng. Đem sự chênh lệch tạm tính là 60 nghìn đồng đó nhân với 26 nghìn tấn thịt trâu nhập khẩu chính ngạch trong năm 2014 sẽ cho thấy một con số khổng lồ.
Một vụ việc như vậy để thấy hoạt động buôn bán hàng giả, hàng lậu và các biến tướng của chúng là vô cùng phức tạp. Như lời của ông Nguyễn Trọng Tín – Phó cục trưởng Cục quản lý thị trường, Bộ Công Thương: “Cuộc chiến đấu tranh chống hàng giả là lâu dài, cam go, quyết liệt và không phải một sớm một chiều có thể làm được”. Trên thế giới và ngay cả đối với các nước phát triển, hàng giả cũng là vấn nạn không dễ giải quyết.
Theo ông Lê Thế Bảo, Chủ tịch Hiệp hội Chống hàng giả và Bảo vệ Thương hiệu Việt Nam, trong nước hiện có khoảng 30 ngành hàng bị làm giả trầm trọng. Từ mỹ phẩm, bia, nước giải khát, điện tử, điện lạnh tới thuốc chữa bệnh, thực phẩm, hàng dệt may, phân bón vật tư nông nghiệp... gây tác động rất lớn đến nền kinh tế.
Đại diện các cơ quan chức năng cho biết, trong năm 2014 đã bắt giữ và xử lý trên 21.000 vụ buôn bán hàng giả. Trong đó, riêng lực lượng QLTT đã kiểm tra và xử lý trên 17 nghìn vụ, với số tiền xử phạt trên 57 tỷ đồng và trị giá hàng hóa vi phạm trên 35 tỷ đồng.
Dù đây là những con số không nhỏ, thể hiện sự nỗ lực của lực lượng chức năng trong cuộc chiến cam go này, nhưng rõ ràng suy cho cùng vẫn chỉ là “muối bỏ bể”. Bởi không khó để nhận thấy, hàng giả hàng nhái vẫn bày bán và lưu thông trên thị trường và cho đến nay, không ai có thể khẳng định chính xác về số lượng, chủng loại các mặt hàng, ngành hàng bị làm giả đang có trên thị trường khi chúng có thể trà trộn vào bằng mọi ngả đường, mọi phương tiện và mọi thành phần.
Một thực tế nghiễm nhiên đúng là trên thị trường xuất hiện hàng giả nhiều bao nhiêu thì người tiêu dùng (NTD) sẽ là những đối tượng chịu thiệt hại lớn bấy nhiêu.
“NTD đang phải đối mặt mê cung vàng thau lẫn lộn. Nhẹ là hàng giả gây thiệt hại về kinh tế, nặng là ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng” – ông Nguyễn Mạnh Hùng, Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ NTD Việt Nam (VINASTAS) nhận định. Trong năm 2014, VINASTAS đã tiếp nhận trên 1.500 vụ khiếu nại của NTD và giải quyết thành công được khoảng 80%. Tuy nhiên, ông Hùng cũng thừa nhận, con số này là quá nhỏ so với thực tế.
Cần sự vào cuộc của tất cả các bên
Theo nhiều ý kiến, vướng mắc trong giải quyết vấn nạn hàng giả do nhiều yếu tố, trong đó bên cạnh sự chồng chéo, hoặc những khoảng trống, điểm hở của các quy định pháp luật, thì cũng có cả những yếu tố thuộc về con người trong vận dụng và thực thi pháp luật.
“Có những lô hàng đã qua được hết các thủ tục hải quan, vào đến nội địa mới phát hiện hàng giả. Câu hỏi đặt ra là tại sao có chuyện lại lọt lưới được như vậy?” – ông Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh về yếu tố chất lượng và năng lực của những người thực thi nhiệm vụ.
Bên cạnh đó, các yếu tố để hỗ trợ lực lượng chức năng thực thi nhiệm vụ như các phương tiện để kiểm tra, giám định phát hiện hàng giả cũng cần được đầu tư trang bị.
Tuy nhiên tại buổi tọa đàm, ông Lê Thế Bảo cho rằng, trong đấu tranh với hàng giả thì vai trò của các hiệp hội, DN là cực kỳ quan trọng. “Vì không ai hiểu hàng giả hơn chính DN có hàng hóa bị làm giả. Họ hiểu từ lối nào hàng giả đi vào, từ khối lượng đến cách thức làm giả. Do đó, việc hợp tác giữa DN với các lực lượng chức năng là tất yếu nếu muốn chống hàng giả”.
Nhưng ông Bảo cũng nêu một thực tế đáng buồn là tại các buổi hội thảo, tọa đàm, chủ yếu chỉ thấy mặt quan chức Nhà nước, số DN đến tham gia chỉ đếm trên đầu ngón tay. Mức độ thờ ơ của nhiều DN Việt Nam đã được một chuyên gia kêu lên: “Không ở nước nào DN bị làm giả mà thờ ơ như chúng ta”.
Để lý giải cho thực tế này, đại diện của Công ty Unilever Việt Nam cho rằng, chủ yếu là do lãnh đạo DN chưa nhận thức đúng đắn. “DN sợ rằng, nếu đứng ra tuyên bố hàng hóa của DN đã bị làm giả thì NTD sẽ đắn đo suy nghĩ và không mua hàng của DN mình nữa. Cùng với đó, DN cũng không chịu đầu tư chống hàng giả vì biết rằng cuộc đấu tranh cực kỳ khó khăn, cam go và tốn kém” – vị đại diện trên cho biết.
Bên cạnh đó, vai trò của chính NTD - những người chịu thiệt hại trực tiếp bởi hàng giả, hàng kém chất lượng cũng chưa được phát huy. Theo ý kiến của ông Hùng, NTD cần tìm hiểu để nắm rõ luật pháp và biết quyền của mình như khi có sự cố thì sẽ được bảo vệ ra sao. Những quy định liên quan đã có đủ và các lực lượng chức năng cũng luôn sẵn sàng ghi nhận và giải quyết.