Nhớ về một đợt “Đấu tranh tiền tệ” trong thời kháng chiến chống thực dân Pháp
Thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954), tỉnh Thái Bình là một tỉnh nằm trong vùng địch hậu, giặc Pháp lập đồn bốt chiếm đóng ở hầu khắp các huyện trong tỉnh; mọi liên lạc với bên ngoài của lực lượng kháng chiến đều bị cắt đứt. Vì vậy, không nhận được sự lãnh đạo chỉ đạo trực tiếp từ Trung ương.
Các tỉnh thuộc Tả ngạn sông Hồng như Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An, TP. Hải Phòng cũng trong tình trạng bị bao vây như tỉnh Thái Bình.
Để các chính sách, chủ trương đường lối chỉ đạo công tác kháng chiến giành thắng lợi, Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định thành lập Khu Tả ngạn, do Khu ủy và Ủy ban kháng chiến hành chính Khu lãnh đạo chỉ đạo mọi mặt công tác nhằm truyền đạt mọi chủ trương, đường lối chính sách của Trung ương và chỉ đạo các tỉnh trong Khu thực hiện.
Đội vận chuyển tiền C.100 thuộc Đ.559 trên cung đường Trường Sơn huyền thoại. (Ảnh minh họa) |
Trong các mặt công tác kháng chiến thuộc phạm vi Khu Tả ngạn có công tác kinh tế tài chính. Ở cấp Khu, ngoài các cơ quan như Khu Tài chính, Khu Công thương… Ngân hàng Quốc gia Khu Tả ngạn cũng được thành lập. Các cơ quan của Khu đều đóng tại huyện Hưng Nhân tỉnh Thái Bình.
Ở các tỉnh, trước đó, các cơ quan Tín dụng sản xuất và Ngân khố quốc gia đã được thành lập và hoạt động, sáp nhập thành Ngân hàng Quốc gia, đặt dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban Kháng chiến Hành chính tỉnh, đồng thời dưới sự chỉ đạo về nghiệp vụ tiền tệ tín dụng ngân hàng của Ngân hàng Quốc gia khu Tả ngạn. Các Ngân hàng tỉnh làm “đại lý” cho Ngân hàng Khu nên được gọi là Đại lý Ngân hàng tỉnh. Ngân hàng Khu quản lý về nhân sự, tiền lương và chỉ đạo mọi mặt hoạt động của Ngân hàng tỉnh.
Thời kỳ này, ở Thái Bình cũng như ở các tỉnh khác trong Khu Tả ngạn, tiền tệ lưu thông chủ yếu là tiền Đông Dương; tiền Việt Nam là đồng bạc Ngân hàng vừa mới được phát hành vào lưu thông (thay thế cho đồng bạc Tài chính đã hết vai trò lịch sử, đang được thu hồi dần về để tiêu hủy).
Lúc đầu, tiền Việt Nam và tiền Đông Dương cùng song song lưu hành trên thị trường, với tỷ giá dao động từ 1/36 (1 đồng Đông Dương bằng 36 đồng Việt Nam) đến 1/40 do Ngân hàng Khu quy định tùy theo tình hình thị trường và cũng tùy theo tình hình chiến sự.
Việc cùng lưu hành song song tiền ta và tiền địch đã gây khó khăn cho công tác tài chính khi chi lương cho cán bộ dân chính Đảng và các khoản chi khác thuộc Ngân sách cũng như công tác cung cấp cho lực lượng vũ trang gồm bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương ngày càng được tăng cường trong tỉnh.
Vì vậy, yêu cầu cấp bách là phải đuổi tiền địch vào vùng địch, làm cho tiền Việt Nam độc chiếm thị trường vùng căn cứ du kích, tiến tới mở rộng lưu hành tiền Ngân hàng ở vùng du kích và vùng giáp ranh.
Vào quý I năm 1953, Khu ủy, Ủy ban kháng chiến hành chính và Ngân hàng Khu Tả ngạn phát động một đợt “đấu tranh tiền tệ với địch” trong toàn Khu, nhằm phát hành tiền Ngân hàng, làm cho tiền Việt Nam độc chiếm thị trường; thu hồi tiền Đông Dương, đưa tiền Đông Dương vào vùng địch để mua nhu yếu phẩm như: thuốc men, vải vóc, giấy vở và các mặt hàng tiêu dùng cần thiết khác phục vụ kháng chiến và dân sinh vùng căn cứ du kích. Ngoài ra, phần lớn số tiền Đông Dương thu hồi được đã được chuyển đến Ngân hàng Liên khu Ba để sử dụng cho nhu cầu chung của cuộc kháng chiến.
Công tác đấu tranh tiền tệ với địch ở Thái Bình được Tỉnh ủy, Ủy ban tỉnh chỉ đạo chặt chẽ, theo dõi sát từng bước tiến hành, bổ khuyết kịp thời những thiếu sót và dự kiến phương hướng cho bước tiếp theo chính xác nên đợt thu hồi tiền đã đạt kết quả tốt đẹp.
Để chuẩn bị cho chiến dịch thu đổi, công tác tuyên truyền vận động quần chúng được tiến hành khẩn trương và rộng khắp. Các tờ rơi in thạch được tung ra, các loa phóng thanh ở từng thôn xóm loan báo với đồng bào về ý nghĩa, yêu cầu, mục đích và ngày đổi tiền, nơi đổi tiền.
Công tác chuẩn bị cho ngày ra quân tại nơi làm việc sơ tán của Ngân hàng trong nhà dân cũng rất nhộn nhịp.
Ngày đó không có máy in rô-nê-ô, nên hàng nghìn trang tài liệu đều phải đánh máy chữ. Ban chỉ đạo tỉnh đã trưng dụng cán bộ nhân viên đánh máy và máy chữ của các cơ quan xung quanh tỉnh tập trung tại nơi làm việc của Ngân hàng để đánh máy tài liệu phục vụ cho công tác thu đổi. Tại một xóm nhỏ hẻo lánh nơi Ngân hàng đóng quân, tiếng máy chữ lách cách râm ran phát ra đều đều, nghe vui tai, làm thay đổi không khí vốn yên tĩnh của làng quê thời chiến tranh giữ nước.
Mọi công việc từ tập trung cán bộ ngành được tỉnh trưng dụng làm công tác thu đổi, học tập chính sách và nghiệp vụ thu đổi tiền, đến việc quy định nơi đặt các bàn đổi tiền, tính toán khối lượng tiền cần thiết cho từng bàn đổi tiền… đều được chuẩn bị chu đáo đến từng chi tiết.
Tiền Ngân hàng mới còn đóng gói kẹp si do hàng trăm dân công với đòn gánh trên vai, hai ró tiền trên hai đầu gánh, dưới sự hướng dẫn của hai cán bộ Ngân hàng, với một tiểu đội bộ đội tỉnh đi bảo vệ và do cán bộ giao liên của ngành Bưu điện dẫn đường; sau mấy chục đêm đi ngày nghỉ, từ Ngân hàng Liên khu Ba ở vùng đồi núi Ninh Bình, đã tập kết an toàn về Ngân hàng tỉnh; để rồi lại được phân ra đóng vào từng túi nhỏ đưa về từng bàn đổi tiền theo khối lượng đã định sẵn.
Sau một tuần tiến hành công tác thu đổi trong đợt “đấu tranh tiền tệ với địch, phát hành tiền Ngân hàng, thu hồi tiền Đông Dương” tại tỉnh Thái Bình đã kết thúc thắng lợi, đạt được kết quả phát hành và thu hồi theo dự kiến ban đầu.
Từ nay, tiền Ngân hàng được lưu hành rộng rãi, độc chiếm thị trường tiền tệ trong khu căn cứ du kích, đảm bảo thực hiện tốt chủ trương cải tiến công tác kinh tế tài chính thời chiến của Đảng; đồng thời qua thu đổi, ta đã nắm giữ được một khối lượng lớn tiền Đông Dương làm vũ khí đấu tranh kinh tế với địch.