Siết chặt chấp hành kỷ luật, kỷ cương, tài chính
Quốc hội thông qua Nghị quyết về dự toán NSNN năm 2018 | |
Cần cải cách toàn diện hệ thống thuế | |
Động lực mới của nền kinh tế |
NSNN đã được cơ cấu hợp lý hơn
Cụ thể về thu NSNN, chúng ta thực hiện 2 năm 2016, 2017 đều vượt khá so với dự toán. Năm 2016 vượt 9,3%, năm 2017 vượt 6,3% so với dự toán. Tỷ trọng lưu động và NSNN bình quân là 25,2% GDP, trong đó từ thuế và phí là 21,3% GDP. Trong khi mục tiêu này đặt ra là huy động không thấp hơn 23,5%, trong đó từ thuế và phí khoảng 21%, góp phần đảm bảo các nhiệm vụ chi cho ngân sách.
Cơ cấu thu cũng chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng thu nội địa bình quân 2 năm đạt 80% tổng thu cân đối NSNN, trong khi giai đoạn 2011-2015 là 68%. Tỷ trọng thu từ dầu thô giảm còn 3 đến 4% thu ngân sách. Thu ngân sách trung ương chiếm tỷ trọng 55% - 56%. Thu ngân sách địa phương chiếm khoảng 44% - 45% tổng thu NSNN. Chính sách thu tiếp tục được hoàn thiện theo hướng giảm nghĩa vụ nộp thuế, trong đó thuế thu nhập DN giảm từ 23 xuống 20% năm 2016…
Chính phủ sẽ tiếp tục hoàn thiện quy định pháp lý về quản lý thuế |
Về chi NSNN, 2 năm 2016 và 2017 đã kiểm soát chặt chẽ hơn về chi và vay nợ trong phạm vi khả năng nguồn lực của nền kinh tế. Tập trung cơ cấu lại chi NSNN, tỷ trọng chi đầu tư phát triển 2 năm 2016, 2017 bình quân đạt 27% tổng chi NSNN, cao hơn mục tiêu đề ra là 25%, 26%. Tỷ lệ chi thường xuyên 2 năm 2016, 2017 khoảng 62% đến 63% và riêng dự toán năm 2018 là 61,7%. Mục tiêu là giảm xuống dưới 64%, trong khi chúng ta vẫn thực hiện mục tiêu tăng lương cơ sở là 7%/năm.
Mặc dù Chính phủ tiếp tục siết chặt kỷ luật chi ngân sách, đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí, nâng cao hiệu quả chi ngân sách, đẩy mạnh thực hiện khoán chi, xây dựng và triển khai kế hoạch tài chính trung hạn, song, tình trạng chấp hành kỷ luật NSNN ở nhiều nơi, nhiều chỗ chưa nghiêm, kể cả tại trung ương và địa phương, các cơ quan nhà nước, DN bao gồm cả DN FDI và DN ngoài quốc doanh.
Tình trạng kê khai thiếu số thuế phải nộp gian lận thương mại chuyển giá, trốn thuế, chiếm đoạt tiền hoàn thuế còn xảy ra tại nhiều nơi. Một phần trong số này đã được cơ quan thanh tra, kiểm toán phát hiện và truy thu. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do công tác tuyên truyền hỗ trợ pháp luật của cơ quan quản lý thu ngân sách chưa tốt, ý thức chấp hành pháp luật của DN, người nộp thuế chưa cao. Việc chuyển đổi cơ chế quản lý thuế từ tiền kiểm sang hậu kiểm phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi cho DN, cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, tuy nhiên, cơ chế này còn kẽ hở để các đối tượng nộp thuế lợi dụng và chiếm đoạt tiền thuế.
Mặc dù vậy, đây là hướng đi đúng, cần kiên trì thực hiện, quan trọng là có giải pháp khắc phục điểm yếu của cơ chế này. “Chính phủ sẽ tiếp tục hoàn thiện quy định pháp lý về quản lý thuế, có tiêu chí phân loại rủi ro để có phương thức quản lý phù hợp đảm bảo công khai minh bạch. “Chúng tôi vừa trình Chính phủ nghị định về quản lý hóa đơn điện tử, làm được việc này thì chắc chắn quản lý thuế mở rộng sẽ tốt hơn”, ông Dũng cho biết.
Trước sự quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các địa phương, tình hình nợ đọng thuế đã giảm cả về số tuyệt đối và tỷ lệ so với tổng thu NSNN, trong đó số thuế nợ đọng giảm từ 81.970 tỷ đồng năm 2016 xuống còn 73.100 tỷ đồng cuối năm 2017, tương ứng với giảm 10,8%, riêng số nợ thuế có khả năng thu hồi giảm từ 31.700 tỷ đồng xuống 26.000 tỷ đồng, tương ứng với số giảm là 18% và bằng khoảng 2,5% tổng thu ngân sách. Cùng với đó, thu hồi nợ đọng thuế cũng được tăng cao qua các năm, năm 2016 chúng ta thu được 39,7 nghìn tỷ đồng, năm 2017 là 44.770 tỷ đồng.
Sẽ thực hiện các giải pháp mạnh hơn
Về lĩnh vực chi NSNN, vẫn còn tình trạng chi sai quy định vượt tiêu chuẩn, dự toán nhiều công trình đội vốn cao, giải ngân vốn vay nước ngoài vượt kế hoạch nợ đọng xây dựng cơ bản còn lớn, chuyển nguồn lớn, thất thoát, lãng phí vẫn còn xảy ra ở một số đơn vị.
Nguyên nhân tình trạng một phần do hệ thống các văn bản pháp luật chưa đồng bộ, cản trở quá trình triển khai một số định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu vẫn còn lạc hậu chưa phù hợp với thực tiễn, nhiều chương trình dự án đã được phê duyệt nhưng chậm triển khai do thiếu văn bản hướng dẫn. Bên cạnh đó, một bộ phận cơ quan, đơn vị, cá nhân chưa có ý thức chấp hành pháp luật về quản lý sử dụng ngân sách hoặc cố tình lợi dụng để tham nhũng, chiếm đoạt tiền, tài sản của nhà nước.
Để khắc phục tình trạng này thời gian tới, Chính phủ sẽ tiếp tục thực hiện các giải pháp mạnh mẽ hơn để siết chặt việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương, tài chính, như thường xuyên rà soát sửa đổi, bổ sung chế độ định mức chi tiêu, quản lý chặt chẽ chi ngân sách, đảm bảo chỉ được chi khi có dự toán và được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán, thanh tra, xử lý nghiêm các sai phạm về quản lý tài chính ngân sách và quản lý tài sản của nhà nước, thu hồi đầy đủ vào NSNN đối với các khoản chi sai chế độ, tiêu chuẩn và định mức và làm tốt hơn công tác tuyên truyền...
Cùng với đó, Thủ tướng cũng sẽ tiếp tục có chỉ đạo để kiểm điểm, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị không chấp hành chương trình thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí của Chính phủ.
Về bội chi NSNN tuyệt đối năm 2016 và 2017 đều giảm so với dự toán. Năm 2016 đã giảm 5.505 tỷ đồng, năm 2017 đã giảm 4.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, do giá trị GDP thực tế không đạt kế hoạch, thực tế là 4.502.700 tỷ đồng, trên kế hoạch là 5.130.000 tỷ đồng, nên tỷ lệ bội chi năm 2016 vẫn tăng so với dự toán, thực tế là 5,52% GDP và dự toán là 4,95% GDP. Trong những năm tới, Chính phủ sẽ phấn đấu giảm dần mức bội chi để đạt mục tiêu đến năm 2020, bội chi ngân sách không quá 3,5% GDP và bình quân cả giai đoạn là 3,9% GDP theo nghị quyết Quốc hội và nghị quyết của Bộ Chính trị.
Ngoài ra, Chính phủ cũng đang tích cực cơ cấu lại nợ công, cả cơ cấu về kỳ hạn, lãi suất, cơ cấu vay trong nước và vay nước ngoài. Cơ cấu các nhà đầu tư theo hướng tăng cường tính bền vững. Theo đó đã kéo dài kỳ hạn phát hành TPCP, nếu năm 2011 bình quân là 3,9 năm đến 2017 là 12,74 năm. Qua đó, tăng kỳ hạn nợ bình quân danh mục TPCP của năm 2011 là 1,84 năm lên 6,71 năm vào năm 2017. Lãi suất huy động cũng giảm mạnh qua các năm. Nếu như năm 2011, bình quân chúng ta huy động là 12,1%/năm thì năm 2017 là 5,98%/năm, 5 tháng đầu năm 2018 bình quân huy động chỉ còn 4,12%/năm. Về cơ cấu vay nợ, Chính phủ cũng giảm tỷ trọng vay nước ngoài từ 61% năm 2011 xuống còn 40% vào cuối năm 2017…