Thúc đẩy vàng trang sức xuất khẩu: Cần nguồn nguyên liệu ổn định, hợp pháp
Ông Nguyễn Thành Long |
Theo ông nguyên nhân nào khiến giới buôn lậu vàng không còn lộng hành như trước?
Dù chưa có con số chính xác là vàng lậu đã giảm bao nhiêu, nhưng tôi chắc chắn giảm nhiều vì 3 tác động chính sách của NHNN.
Thứ nhất, các NHTM không được phép kinh doanh vàng – đây là giải pháp quan trọng nhất trong chuyện thu hẹp, ổn định thị trường vàng.
Thứ hai, DN kinh doanh vàng miếng bị thu hẹp lại, nhiều người kinh doanh vàng miếng trước đây chuyển qua nữ trang hoặc có thể bỏ nghề khiến cho thị trường trầm lắng. Bởi đối với thị trường vàng, giá cả cũng như cầu vàng phải lên xuống nhiều mới tạo hấp dẫn cho người kinh doanh. Còn thị trường cứ giữ thế ổn định, bình bình thì người ta không thiết tha kinh doanh vàng nữa, nhất là vàng nguyên liệu (mà trong đó có không ít vàng lậu) không có cơ hội lướt sóng.
Và nguyên nhân thứ ba cũng rất quan trọng là NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng SJC. Trước đây các DN mua vàng trôi nổi rồi đưa vào SJC gia công, giờ tất cả mọi khâu từ đầu vào đến đầu ra vàng miếng SJC đều được NHNN quản lý chặt chẽ. Nên ngăn chặn hoàn toàn nguyên liệu vàng lậu chui vào khuôn vàng miếng. Giờ loại vàng lậu đó chỉ có thể trà trộn vào vàng nữ trang.
Thống đốc NHNN cho biết, năm 2015 sẽ có giải pháp khơi thông và phát triển thị trường vàng trang sức, nhất là để xuất khẩu. Theo ông đâu sẽ là giải pháp quan trọng để thực hiện điều này?
Nếu NHNN có chủ trương hỗ trợ thị trường vàng trang sức, chắc chắn thị trường này sẽ phát triển theo hướng tăng chất lượng không chỉ với sản phẩm tiêu thụ trong nước mà còn liên quan đến vấn đề vàng trang sức xuất khẩu. Thực tế thời gian qua, sau khi Thông tư 22 của Bộ Khoa học và Công nghệ chính thức đi vào cuộc sống cũng đã có những tác động tích cực. Nhiều DN, nhất là những DN lớn đã nghiêm túc tuân thủ các quy định như bước đầu trang bị máy móc thiết bị kiểm định vàng khá hiện đại. Tuy nhiên, đó chỉ mới là kết quả bước đầu.
Để thị trường ngấm chính sách phải mất một thời gian nữa. Hơn thế, đi sâu vào thực hiện con đường lành mạnh hóa thị trường vàng trang sức còn nhiều chông gai. Nói vậy thôi, nhiều quy định thực hiện vẫn còn khá lúng túng như máy kiểm định thế nào đạt chuẩn cũng chưa thống nhất… Số DN nhỏ lẻ ngành nữ trang Việt Nam rất lớn nên việc kiểm soát các cửa hàng này có tuân thủ chất lượng theo quy định hay không là rất khó vì nhân lực cơ quan kiểm tra mỏng.
Nhưng điều mà tôi thấy chính sách còn đang lúng túng nhất là khâu nguyên liệu. Vấn đề làm thế nào để những người sản xuất nữ trang có nguyên liệu chất lượng thực sự đang là bài toán khó đối với những người kinh doanh ngành này. Hiện nguyên liệu sản xuất vàng trang sức có 3 nguồn: từ sản phẩm nữ trang cũ; gom hàng không nhãn mác trôi nổi trên thị trường; và khi cần có thể DN sử dụng vàng miếng để sản xuất vàng nữ trang. Hiện NHNN chưa cấp quota cho DN nào nhập vàng nguyên liệu. Với nguồn nguyên liệu không ổn định, còn thả nổi, không có nguồn cung ứng hợp pháp như vậy thì ngành nữ trang khó phát triển bền vững.
Năm 2015 sẽ có giải pháp khơi thông và phát triển thị trường vàng trang sức, nhất là để xuất khẩu |
Vậy đâu là giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho ngành vàng trang sức, thưa ông?
Thời gian tới, NHNN có thể xem xét cho phép các DN có hợp đồng xuất khẩu lớn nhập vàng nguyên liệu theo đúng số lượng cam kết tại hợp đồng. Đối với DN này có thể kiểm soát bằng con đường hải quan. Tất nhiên vẫn không thể tránh khỏi có vài trường hợp lạm dụng, nhưng xét về tổng thể và dựa vào yếu tố lịch sử của một số công ty sản xuất nữ trang lớn, có doanh số bán vàng nữ trang tốt, hợp đồng ổn định như PNJ, DOJI, SJC… NHNN có thể cho phép họ nhập vàng nguyên liệu để sản xuất vàng trang sức xuất khẩu. Hoặc NHNN nhập nguyên liệu bán cho họ. Theo tôi lành mạnh nhất là NHNN bán lại theo giá thị trường tuỳ từng thời điểm.
Nhưng còn đối với DN nhỏ thì làm thế nào để kiểm soát nguồn hàng chất lượng?
Nếu thị trường phát triển, Nhà nước nên tạo điều kiện cho những DN lớn hoạt động kinh doanh. Từ đó họ có cơ hội phát triển mạng lưới vệ tinh đẩy mạnh ngành nữ trong nước. Tức là DN lớn đặt gia công những DN nhỏ. Lúc đó họ kiểm soát được chất lượng của DN này. Chứ thực tế đối với những DN nhỏ có quá nhiều nguồn nguyên liệu sản xuất thì rất khó kiểm soát chất lượng sản phẩm nếu không nói là không thể. Chỉ có cách từ DN lớn đặt gia công DN nhỏ, họ tự kiểm soát lẫn nhau.
Để phát triển thị trường vàng trang sức, bên cạnh đảm bảo nguồn nguyên liệu đầu vào, khâu quản lý thị trường của Bộ Công Thương cần phải làm chặt chẽ, sát sao hơn. Qua đó mới đảm bảo chất lượng vàng trang sức lưu thông trên thị trường cũng như quyền lợi của người tiêu dùng.
Ông có nghĩ đây đã là thời điểm thuận lợi huy động vàng trong dân?
Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam cũng đã có đề nghị về vấn đề này. Nhưng quả thực, vào thời điểm nào phù hợp với phương pháp huy động như thế nào còn tùy thuộc vào Nhà nước. Bởi huy động vàng trong dân phải có biện pháp phát huy được hiệu quả nguồn lực trong dân chứ nếu huy động vàng lại để nằm im trong kho thì cũng lãng phí. Hoặc ngược lại, nếu mang đi đầu tư mà chưa lường hết độ rủi ro thì coi chừng bị lỗ do giá vàng lên xuống thất thường.
Tôi nghĩ, đây là vấn đề tương đối khó, cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Còn quan điểm của Hiệp hội thì mong muốn làm sao nguồn lực vàng trong dân được sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả.
Xin cảm ơn ông!