Trăn trở với bài toán xoá nghèo bền vững
Những năm qua, các chính sách xoá nghèo bền vững đặc biệt cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS&MN) được ban hành và thực hiện. Hệ thống chính sách khá đầy đủ và toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín các địa bàn đã từng bước tạo nên những thay đổi căn bản trong tốc độ tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
Tuy nhiên, những hạn chế trong chính sách như đầu tư dàn trải, trùng lặp về đối tượng, thời gian thực hiện ngắn, nguồn lực chưa đảm bảo đồng bộ đã ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách.
Nuôi con trâu con bò mong nó lớn nhanh để trả tiền NH |
Sinh kế mong manh
Đến với huyện Chư Păh, Gia Lai cái đói, cái nghèo đang dần đẩy lùi, phần lớn nhờ dòng vốn tín dụng từ NHCSXH đã phủ tới 9.037 hộ còn dư nợ/17.174 hộ trong huyện. Cùng với sự đổi thay của cơ sở hạ tầng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 12,8% là một con số đáng nói, so với ngày đầu thành lập huyện, tỷ lệ hộ đói nghèo trên 50%.
Tuy nhiên với bí thư huyện uỷ huyện Chư Păh Đoàn Bảy: vẫn còn đó những băn khoăn về bài toán xoá nghèo bền vững. Bởi huyện chủ trương phát triển cây cao su và hiện đang tuyên truyền vận động người dân trong huyện không chặt phá. Nhưng ngay chính ông cũng chẳng biết sẽ vận động người dân giữ cây cao su được bao lâu khi giá cao su đang rớt thảm trong khi hồ tiêu, cà phê cho giá trị cao hơn.
Toàn huyện có 13 xã và 2 thị trấn, thì đã có tới 4 xã đặc biệt khó khăn. 123 thôn làng được kết cấu với 73 làng đồng bào dân tộc, 29 làng đặc biệt khó khăn. Dân số toàn huyện là 71.514 người với 53,51% là đồng bào dân tộc chủ yếu Jarai, Ba Nar.
Vốn tín dụng chính sách đã chảy nhưng giám đốc phòng giao dịch NHCSXH huyện Chư Păh Bùi Thị Bích Ân cho biết, nếu không có sự tham gia của các tổ chức hội với việc khuyến nông, trợ giúp người nông dân định hướng cây trồng và hỗ trợ kỹ thuật, đầu ra, thì dòng vốn tín dụng cũng khó có thể tối đa hoá tác dụng.
Và nếu người dân cứ chạy theo phong trào chuyển đổi khi đầu ra của hàng hoá nông nghiệp bấp bênh như hiện nay, bên cạnh tập quán sản xuất của nhiều hộ dân vẫn còn mang nặng tính tự cung tự cấp, thì bài toán thoát nghèo bền vững sẽ còn đeo đuổi với một huyện vùng cao khó khăn như Chư Păh.
Sự chuyển đổi tập quán sản xuất phát triển kinh tế hàng hoá của người dân tại các tỉnh miền núi phía Bắc lại càng khó khăn hơn khi diện tích đất nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp, phân bố phân tán nên rất khó cho tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung chuyên canh để tạo ra sản phẩm hàng hóa trên quy mô lớn.
Sản phẩm sản xuất ra không tập trung, khó tiêu thụ, dẫn đến lợi nhuận thấp, đồng tiền thu được không bù đắp đủ chi phí sản xuất. Cộng khí hậu thời tiết khắc nghiệt luôn bị ảnh hưởng của thiên nhiên dẫn đến tình trạng tái nghèo, làm gia tăng số lượng hộ gia đình đặc biệt khó khăn tại nhiều địa bàn.
Cần những trợ lực mạnh
Những điểm nghẽn xoá nghèo bền vững là thế, song các trợ lực khác dường như chưa đủ. Còn nhớ tại phiên họp đánh giá kết quả thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2011-2015, xây dựng và đề xuất chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020 tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá XIII vừa qua, có tới 181 chính sách giảm nghèo đã được chỉ ra, song theo đại biểu Quốc hội Cao Thị Xuân (Thanh Hoá), thì việc có quá nhiều chính sách như thế dẫn đến trùng lắp, chồng chéo, hiệu quả thấp.
Chương trình 135 đã trải qua 3 giai đoạn, chương trình 30a đã qua 2 giai đoạn nhưng tỷ lệ hộ nghèo thuộc đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn chiếm tới 47% trong tổng số hộ nghèo của toàn quốc.
Đối với chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016- 2020 vẫn còn những khoảng trống khi kinh phí 2.100 tỷ đồng là số vốn huy động từ cộng đồng DN quốc tế chưa được xác định và 4.712 tỷ đồng kinh phí do địa phương bố trí là không khả thi. Vì thực tế vừa qua khả năng huy động của địa phương, đặc biệt là các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa và các nguồn lực khác rất khó khăn, chiếm tỷ lệ thấp, chủ yếu là ngân sách Trung ương.
Theo Báo cáo của Chính phủ, trong 5 năm 2011-2015, trong tổng nguồn lực cần phải huy động thì ngân sách Trung ương chiếm 57%, ngân sách địa phương chỉ chiếm 14%, vốn nước ngoài chiếm 17%, vốn tín dụng 5% và vốn huy động khác là 7%.
Chỉ nói riêng khu vực Tây Nguyên, dù 3 năm qua cấp uỷ, chính quyền địa phương đã có nhiều cố gắng trong tăng thu, tiết kiệm chi, dành nguồn ngân sách địa phương để cho vay hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn, nhưng kết quả so với bình quân chung của toàn quốc thì vẫn còn hạn chế. Đến 31/8/2015, bình quân nguồn vốn địa phương của một tỉnh ở Tây Nguyên mới đạt gần 63 tỷ đồng, trong khi mức bình quân chung toàn quốc đạt gần 80 tỷ đồng/tỉnh.
Tuy nhiên, không phải lúc nào, những dòng vốn chính sách cũng có thể phát huy hiệu quả. Thực tế tại Chư Păh cho thấy, trong khi nhiều nơi hộ nghèo, cận nghèo có nhu cầu vay vượt hạn mức thì vẫn còn ở đây nhiều hộ khi cán bộ NHCSXH đến khuyến khích nhiều lần họ vẫn chỉ vay 20 triệu đồng. Mà theo cách lý giải như của chị B Dịu, dân tộc Gia Rai, thôn Lpok, xã Ya Khươl huyện Chư Păh là do chị chưa biết đầu tư vào đâu. Mua con trâu, con bò nuôi cũng không phải có ngay tiền trả lãi ngân hàng hàng tháng, đất của nhà cũng đã trồng cà phê rồi.
Thực tế tại nhiều địa phương trên cả nước cho thấy, vấn đề yếu nhất hiện nay là sự gắn kết hoạt động tập huấn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm làm ăn của các cơ quan chính quyền (cơ quan khuyến nông, khuyến công, khuyến ngư... của huyện, của xã) của hội, đoàn thể với hoạt động giải ngân cho vay của NHCSXH, dẫn đến một bộ phận người nghèo sử dụng vốn vay chưa hiệu quả, không trả được nợ đúng hạn, chưa thoát nghèo bền vững.
Câu chuyện quay lại đối với chương trình giảm nghèo bền vững như nhiều các chuyên gia lãnh đạo tỉnh nhìn nhận là cần tập trung vào các giải pháp mang tính sinh kế lâu dài cho người nghèo để người nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Cùng với đó, các chính sách hỗ trợ vốn cho các chương trình cần đủ và đồng bộ để gia tăng hiệu quả xoá nghèo bền vững.