“Tư bản trong thế kỷ 21”: Phần 1: Vì sao “Người ăn không hết, kẻ lần không ra”?
Từ năm 1970, bất bình đẳng thu nhập tại Mỹ và các nơi khác ngày càng nghiêm trọng. Khoảng cách thu nhập giữa người giàu và người nghèo ngày càng nới rộng. Các cuộc thảo luận cho đến nay đã phát hiện ra một số nhân tố: đồng lương tối thiểu thực tế ngày càng bị xói mòn; đàm phán của công đoàn và thương lượng tập thể ngày càng yếu ớt; toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ và sự cạnh tranh của lao động lương thấp ở các nước nghèo; thay đổi công nghệ và sự chuyển dịch nhu cầu tuyển dụng đến những vị trí cao cấp và lao động phổ thông mà bỏ qua tầng lớp ở giữa.
Thomas Piketty tại Trường Kinh tế Paris năm 2013
Dường như nguyên nhân nào cũng đều đúng. Nhưng ít nhất vẫn còn hai thiếu sót: Đầu tiên, họ không nói đến vấn đề thực sự cần phải bàn đến: xu hướng thu nhập top trên của "1%" so với phần còn lại của xã hội.
Thứ hai, dường như có chút ngẫu nhiên, trong vòng 40 năm qua, một xu hướng mà ta thường nhìn thấy tại các nền kinh tế tiên tiến như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản, đó là tư bản chủ nghĩa công nghiệp hiện đại ngày càng cắm rễ sâu trong kinh tế.
Bây giờ cùng tìm hiểu về tác giả cuốn “Tư bản trong thế kỷ 21”: Thomas Piketty - năm nay 42 tuổi, là một cái tên nổi tiếng trong giới khoa học Pháp. Ông hiện là giáo sư tại Trường Kinh tế Paris, đồng thời là giám đốc nghiên cứu tại Trường Cao học Khoa học Xã hội (EHESS). Cuốn sách "Le Capital au XXI e siècle" (Tư bản trong thế kỷ 21) của ông, với bản dịch tiếng Anh “Capital in the 21st century”, đang thịnh hành trên thế giới thời gian gần đây.
Cuốn sách bắt đầu với những thống kê tài sản của cá nhân hay tập thể tại các nước Pháp, Anh và Mỹ. Rồi sau đó là đến các nước Đức, Nhật Bản, Thụy Điển và một số các quốc gia khác. Theo cách tính này, tổng tài sản tại Pháp vào năm 1850 gấp khoảng 7 năm thu nhập, nhưng đối với Mỹ vào những năm 1950 chỉ bằng khoảng 4 năm. Tham khảo đầu ra của tư bản và tỷ suất tư bản trên thu nhập rất phổ biến trong kinh tế học, chúng ta hãy làm quen với nó.
Có một sự mơ hồ nhỏ ở đây. Theo Piketty, vốn chính là tư bản gồm tất cả những tài sản mà người ta có thể sở hữu và mua bán trên thị trường như bất động sản, vốn trong doanh nghiệp, máy móc, nhà xưởng, kể cả tài sản sở hữu trí tuệ. Nhưng nghĩa của từ “vốn” trong tiếng Anh có một chút khác biệt đó là "yếu tố sản xuất", đầu vào thiết yếu của quá trình sản xuất, nhà máy, máy móc, máy tính, tòa nhà văn phòng hoặc dịch vụ…
Nghĩa này cũng khác so với “của cải”. Đó là tài sản có giá trị hoặc là một phần của của cải nhưng không được đưa vào quá trình sản xuất như bức tranh treo trong phòng khách phục vụ mục đích thưởng thức nhưng thông thường không được tính vào thu nhập quốc dân.
Tỷ suất tư bản trên thu nhập ở Mỹ luôn thấp hơn so với châu Âu. Lý do chính là trong giai đoạn đầu, đất đai của Bắc Mỹ được mở rộng nên giá đất rất rẻ. Nhưng từ thế kỷ 20 trở đi, tỷ suất tư bản trên thu nhập thấp tại Mỹ có thể phản ánh trình độ năng lực sản xuất cao hơn: một lượng vốn nhất định đã hỗ trợ cho sản xuất mang đến năng suất lớn hơn so với châu Âu.
Không có gì ngạc nhiên khi Mỹ ít chịu thiệt hại về vốn hơn Anh và Pháp trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Theo lập luận của Piketty, trong cả ba nước và cả các nơi khác, tỷ suất tư bản trên thu nhập ngày càng tăng kể từ năm 1950, dường như quay trở lại thời kỳ đỉnh cao của thế kỷ 19.
Piketty dự đoán, tỷ suất tư bản trên thu nhập của thế giới sẽ tăng từ dưới 4,5 lần trong năm 2010 lên mức 6,5 lần vào cuối thế kỷ này. Điều đó sẽ đưa thế giới quay trở lại hình ảnh của châu Âu vào thế kỷ 19, khi giới thượng lưu không làm gì cả, chỉ biết hưởng lợi tức trên điền trang.
Dự đoán này dựa trên cơ sở nào? Hoặc điều gì xác định tỷ suất tư bản trên thu nhập dài hạn? Đây là câu hỏi đã được các nhà kinh tế nghiên cứu trong 75 năm. Họ hội tụ câu trả lời tiêu chuẩn mà Piketty đã liệt kê giống như một “luật” về nền kinh tế trong dài hạn. Về cơ bản nó có những điểm sau:
Hãy cùng hình dung một nền kinh tế có thu nhập quốc dân là 100, tăng trưởng ở mức 2%/năm. Giả sử nước này thường xuyên tiết kiệm và đầu tư 10% thu nhập quốc dân. Vì vậy, trong 1 năm, thu nhập của nước đó đạt 100 và thêm 10 vào số tài sản. Nếu tỷ suất tư bản trên thu nhập không thay đổi trong năm tới, thì có nghĩa rằng nó sẽ ổn định trong thời gian dài. Điều đó cũng có nghĩa là tử số của tỷ suất tư bản trên thu nhập cũng phải tăng trưởng ở mức 2% tương tự như mẫu số.
Như chúng ta đã đề cập, muốn thêm được 10 với điều kiện tăng trưởng 2% trên vốn thì vốn phải cần 500, tỷ suất là 5. Chúng ta có một câu chuyện thế này: Thu nhập quốc dân năm nay là 100, vốn là 500 và tỷ suất là 5. Thu nhập quốc dân năm tiếp theo là 102, vốn là 510, tỷ suất này vẫn là 5, và quá trình này có thể lặp lại một cách tự động miễn như tốc độ tăng trưởng vẫn ở mức 2%/năm và tỷ suất tiết kiệm/đầu tư là 10% thu nhập quốc dân.
Ví dụ này cho thấy: nếu nền kinh tế đang tăng trưởng g% mỗi năm, và nếu nó tiết kiệm s% thu nhập quốc dân mỗi năm, tỷ suất tư bản trên thu nhập tự tái tạo là s/g (ví dụ trên là 10/2). Piketty cho thấy rằng, sự giàu có thường tự tái tạo trên chính phần tư bản và thường có mức lợi nhuận ròng dương. Đó là điều tiếp theo cần được điều tra.
Piketty ước tính, tỷ suất thu nhập thuần trên vốn sử dụng ở Anh sẽ trở lại thời kỳ những năm 1770 và Pháp sẽ trở lại năm 1820, nhưng không phải với nước Mỹ. Ông kết luận: "Tỷ suất thu nhập thuần trên vốn sử dụng dao động xung quanh giá trị trung tâm của 4-5%/ năm, hay rộng hơn là khoảng từ 3-6%/năm. Tuy nhiên, tỷ suất lợi nhuận thuần trên vốn chủ sở hữu đã giảm nhẹ trong quãng thời gian dài. Sẽ rất thú vị khi so sánh con số này với nước Mỹ”.
Bây giờ, nếu bạn nhân tỷ lệ lợi nhuận trên vốn với tỷ suất tư bản trên thu nhập, bạn sẽ có được phần lợi tức trong thu nhập quốc dân. Nếu tổng tư bản bằng 6 năm tổng thu nhập quốc dân và nếu tỷ lệ thu nhập từ tư bản là 5% thì phần chia cho tư bản từ thu nhập quốc dân là 30%. Và thu nhập từ lao động sẽ còn lại là 70%. Cuối cùng, sau khi có được điều này, chúng ta bắt đầu nói đến sự bất bình đẳng theo hai nghĩa khác nhau.
Đầu tiên, chúng ta đã đề cập đến chức năng của phân phối thu nhập, sự phân chia giữa thu nhập từ công việc và thu nhập từ tài sản. Thứ hai, là sự thu nhập từ tài sản luôn cao hơn thu nhập từ lao động và khoảng cách này đang ngày càng tăng, kéo dài sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.
Điều này đôi khi khá mơ hồ. Phần thu nhập quốc dân từ lao động là một thứ tương tự như tiền lương thực tế chia cho năng suất lao động. Bạn có thích sống trong một xã hội mà trong đó tiền lương thực tế đã được tăng lên nhanh chóng nhưng phần chia cho thu nhập lao động lại giảm vì năng suất đã tăng lên nhanh hơn, hoặc một xã hội mà với năng suất trì trệ khiến tiền lương thực tế không tăng, do đó phần chia cho lao động không thay đổi?
Đương nhiên, về mặt kinh tế thì điều đầu tiên tốt hơn rồi: bạn hưởng lương, chứ không phải là bạn hưởng phần lợi tức thu nhập quốc dân. Nhưng, lựa chọn thứ hai cũng có lợi thế về chính trị và xã hội. Nếu một số nhỏ chủ sở hữu và tầng lớp giàu có này ngày càng thâu tóm được thu nhập quốc dân, điều này khiến họ có thể dẫn dắt xã hội theo những cách khác nhau.
Giả sử, chúng ta chấp nhận dự đoán của Piketty rằng, tỷ suất tư bản trên thu nhập sẽ tăng lên trong thế kỷ tới trước khi ổn định ở một giá trị cao xung quanh 7. Liệu phần thu nhập của tư bản có tăng lên? Không hẳn: hãy nhớ rằng chúng ta phải nhân tỷ suất tư bản trên thu nhập với tỷ suất lợi nhuận.
Quy luật lợi nhuận giảm dần cho thấy tỷ suất lợi nhuận trên vốn sẽ giảm, khi những ngành sản xuất thâm dụng vốn sẽ khó khăn hơn trong việc tìm kiếm lợi nhuận đối với phần vốn tăng thêm. Phần phân chia lợi thuận của tăng hoặc giảm hoặc phụ thuộc vào việc tỷ suất lợi nhuận giảm nhiều hay ít so với tỷ suất tư bản trên thu nhập.
Hiện trong lĩnh vực kinh tế đã có rất nhiều nghiên cứu xung quanh câu hỏi này, nhưng chưa có câu trả lời nào hoàn hảo. Trong vài thập kỷ qua, năng suất tăng trưởng tại Mỹ luôn đi trước việc tăng lương.
Chưa có dấu hiệu nào cho thấy sẽ đảo ngược được hiện tượng này, do đó phần thu nhập từ tư bản tăng lên trong khi phần thu nhập cho lao động giảm đi. Có lẽ là phần thu nhập tư bản sẽ tăng từ 30% đến khoảng 35%. Điều này gây ra thách thức đối với nền dân chủ và chính trị.
Những lập luận này có ý nghĩa quan trọng. Như chúng ta đã biết, không ai trước Piketty có được những kết nối này. Hãy nhớ rằng, cả lịch sử và lý thuyết cho rằng, tỷ suất tư bản trên thu nhập tại các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang có xu hướng tăng chậm và ổn định.
Phần 2: Nâng thuế tư bản (vốn) - Giải pháp lập lại công bằng
Vũ Anh Tuấn (Theo Newrepublic)