Từ nguy cơ chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Chiến tranh sẽ khó xảy ra
Không lâu sau khi Mỹ quyết định áp gói thuế quan trị giá tới 60 tỷ USD đối với khoảng 1.300 mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào danh sách xem xét đánh thuế 25% và quyết định đáp trả của Bắc Kinh bằng một kế hoạch áp thuế tương ứng với một số mặt hàng của Mỹ, ngày 5/4/2018, Nhà Trắng lại tiếp tục đưa ra một tuyên bố trích lời của Tổng thống Donald Trump khẳng định: “Theo cách trả đũa bất công bằng của Trung Quốc, tôi đã yêu cầu Văn phòng Đại diện Thương mại (USTR) xem xét việc đánh thuế thêm 100 tỷ USD với hàng hóa từ Trung Quốc có phù hợp với Mục 301 (quy định quyền và trình tự thực thi các quyền của Hoa Kỳ theo các hiệp định thương mại để phản ứng với một số tập quán thương mại không công bằng của nước ngoài) hay không, và nếu có, cần xác định các sản phẩm sẽ bị áp mức thuế thêm này”.
Hàng hóa chất lượng, đáp ứng đầy đủ các yêu cầu tiêu chuẩn là cách để DN giữ và gia tăng được thị phần xuất khẩu |
Trước đó phát biểu tại Hội nghị Thượng đỉnh Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng lần thứ 6 (GMS 6) tại Hà Nội ngày 31/3, Ủy viên Quốc vụ, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã nhấn mạnh: Trung Quốc chống lại chủ nghĩa bảo hộ. Chủ nghĩa bảo hộ không mang lại lợi ích cho ai, đấy chỉ như là tấm vé một chiều.
Ông Zhang Jun, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Quốc tế Trung Quốc trong trả lời câu hỏi của báo giới liên quan đến vấn đề này cũng khẳng định, Trung Quốc không muốn có một cuộc CTTM nhưng Trung Quốc cũng không e sợ một cuộc chiến như vậy. Trung Quốc tự tin và đủ khả năng để đối mặt với những thách thức này. Trung Quốc sẽ tiến hành bất cứ biện pháp cần thiết nào để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của Trung Quốc.
Những động thái từ hai bên như vậy cho thấy rủi ro vẫn đang gia tăng nhưng theo các chuyên gia, về cơ bản sẽ khó có khả năng xảy ra một cuộc CTTM giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới này. “Tôi nghĩ nhiều khả năng các bên sẽ ngồi lại với nhau bàn bạc, tìm ra giải pháp để tránh khả năng xảy ra một cuộc CTTM thực sự. Bởi một khi xảy ra, sẽ không có ai được lợi hết”, ông Phạm Hồng Hải, CEO HSBC Việt Nam nhận định nhanh với Thời báo Ngân hàng khi được hỏi về những diễn biến mới hiện nay.
Đây cũng là quan điểm được nhiều chuyên gia đồng tình. Trong trả lời phỏng vấn của Thời báo Ngân hàng, ông Everett Myers, nguyên giáo sư Đại học New York cho rằng, dù không thể khẳng định chắc chắn là tình hình có tiếp tục leo thang và trở thành CTTM hay không nhưng về cơ bản hai bên sẽ tìm kiếm các giải pháp giải quyết thông qua đàm phán.
Báo cáo chuyên đề của Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) mới đây cũng dự báo, với vị thế là những đối tác thương mại, đầu tư lớn của nhau thì khó có khả năng CTTM Mỹ - Trung sẽ diễn ra trên quy mô lớn. Và thực tế bên cạnh các động thái từ hai bên mà thị trường nhìn nhận là đang làm leo thang căng thẳng thì cùng lúc hai phía cũng phát tín hiệu sẵn sàng đàm phán.
Cần sẵn sàng cho một môi trường bất định hơn
Như vậy nhận định của giới phân tích cho thấy, mối quan hệ “cộng sinh” giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới khiến nguy cơ một cuộc CTTM lớn giữa 2 nền kinh tế này là khó xảy ra. Tuy nhiên, rủi ro một CTTM như vậy vẫn không thể loại trừ và đây là một biến số ảnh hưởng mang tính khách quan có thể tác động đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam.
Là một nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu và đang ngày càng tham gia nhiều vào các chuỗi cung ứng toàn cầu nên không thể nói Việt Nam sẽ miễn nhiễm với các tác động gián tiếp, nhất là trong trường hợp một CTTM như vậy xảy ra. Giới phân tích cũng nhận định, nếu căng thẳng thương mại Mỹ – Trung Quốc tiếp tục gia tăng, thị trường tài chính thế giới sẽ tiếp tục có những biến động mạnh, từ đó ít nhiều sẽ tác động tới TTCK Việt Nam trong ngắn hạn.
Tuy nhiên theo các chuyên gia, những tác động ấy có hàm cả nghĩa tích cực và tiêu cực. Đơn cử, giả thiết chỉ xảy ra CTTM cục bộ giữa 2 nền kinh tế này, Trung Quốc có thể sẽ hóa giải khó khăn trong xuất khẩu sang Mỹ bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường khác, trong đó có Việt Nam và có thể làm tăng sức ép cạnh tranh với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ở các thị trường thứ ba. Nhưng đồng thời, cơ hội xuất khẩu sang Mỹ của Việt Nam cũng như các nước khác sẽ nhiều hơn.
Nhưng điều đó có thể cũng chỉ đúng với lý thuyết về cầu của hàng hóa, bởi hơn hết nó còn là vấn đề tiêu chuẩn, chất lượng mà các thị trường như Mỹ đặt ra và khả năng đáp ứng của các DN trong nước thế nào, cũng như liệu thực sự thị trường của họ có muốn cho hàng hóa của Việt Nam vào cạnh tranh công bằng hay không, phân khúc hàng hóa mà thị trường cần thì DN Việt vươn tới được không… Đó là những yếu tố cần quan tâm, nhất là trong bối cảnh chủ nghĩa bảo hộ và các hàng rào thuế và phi thuế quan gia tăng.
Thực tế trong thời gian vừa qua, xuất khẩu một số mặt hàng của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã gặp những khó khăn (như bị áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm tôn mạ và thép cán nguội, thuế chống bán phá giá cao với cá da trơn…). Nên dù có hay không xảy ra CTTM, đó vẫn là những vấn đề mà các DN xuất khẩu của Việt Nam phải tính tới.
Những diễn biến tình hình hiện nay cũng cho thấy tính bất ổn trong thương mại toàn cầu đang tăng lên. Hướng thích nghi và hóa giải với những bất ổn này của các DN xuất khẩu là ngoài việc tìm kiếm, mở rộng thị trường còn cần tập trung giải bài toán làm sao xây dựng thương hiệu, đáp ứng được chất lượng và các yêu cầu tiêu chuẩn ngày càng khắt khe của các thị trường bên ngoài.
Cùng với đó, lấy tinh thần lạc quan để thắng tình hình có vẻ bi quan trong quan hệ thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay cũng là cách để các DN vượt lên. Theo Báo cáo “Navigator: hiện tại, tương lai và ý nghĩa đối với DN” của Tập đoàn HSBC vừa công bố là các DN trên toàn cầu dù bày tỏ lo ngại về ảnh hưởng của các chính sách bảo hộ ngày càng tăng hiện nay song vẫn lạc quan về triển vọng giao thương quốc tế của họ.
Cụ thể trong số 6.000 DN được khảo sát trên toàn cầu, có tới 77% DN bày tỏ lạc quan về triển vọng kinh doanh quốc tế của mình và kỳ vọng khối lượng thương mại sẽ tăng trong vòng 12 năm tới. Đáng chú ý là trong số 200 DN được khảo sát tại Việt Nam, con số lạc quan này lên tới 90%, cao hơn đáng kể so với trung bình trên thế giới.
“Lo ngại về chủ nghĩa bảo hộ tăng cao không làm cản trở sự lạc quan của các DN trên toàn cầu. Khi hiểu rõ về các yếu tố ảnh hưởng cũng như những trở ngại đối với thương mại, những người đứng đầu DN có thể xác định được các rủi ro cũng như cơ hội, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn cho tăng trưởng thương mại trong tương lai”, ông Noel Quinn, Tổng giám đốc phụ trách Khối Dịch vụ ngân hàng DN toàn cầu, Tập đoàn HSBC, nhận định.