Anh “bộ đội cụ Hồ” người Hy Lạp
Câu chuyện được Kostas kể lại: Từ tháng 8/1945, sau khi Chiến tranh Thế giới thứ Hai kết thúc, ông bị bắt lao động khổ sai ở Đức khi ấy mới 17 tuổi, sau đó ông sang Italia và kẹt lại ở đó vì đất nước Hy Lạp còn trong nội chiến. Ông cùng một người bạn đành ghi danh vào đội lính lê dương Pháp, rồi bị đưa lên tàu biển đến Sài Gòn.
Kostas Sarantidis trong một lần thăm Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Thế nhưng, những ngày đầu đến Việt Nam, Kostas đã chứng kiến nhiều hành động tàn ác của quân Pháp đối với người dân bản xứ, khiến ông nảy sinh ý định đào ngũ sang phe Việt Minh. Người đầu tiên ông gặp gỡ là vợ một viên sứ Pháp, tên là Mai Lê. Ông giác ngộ và kính trọng những người cách mạng đang thực hiện lý tưởng cao đẹp, quyết giành lại độc lập, tự do cho đất nước Việt Nam.
Không lâu sau, ông cùng người bạn Tây Ban Nha Santo Merinos đào ngũ trốn theo Việt Minh. Cùng lúc, họ cũng giải thoát cho 25 tù binh khác, mang theo một súng máy, 2 khẩu súng trường. Sau 2 ngày lên núi, họ gặp bộ đội liên khu V chào đón. Kostas Sarantidis chính thức trở thành bộ đội Việt Nam, được biên chế ở trung đoàn 812 đóng tại Bình Thuận. Cái tên Nguyễn Văn Lập cũng ra đời từ đó.
Trong hồi ký “Tại sao tôi theo Việt Minh”, Kostas giải thích, tên này là sự kết hợp của họ Nguyễn, theo Nguyễn Ái Quốc, Văn là văn hoá, Lập là lập nên, xây dựng, lập lại. Còn bạn ông - Santo Merinos cũng đổi tên là Nguyễn Văn Vỹ (sau này hy sinh ở chiến trường Lào năm 1951).
Trong gần 10 năm tham gia quân ngũ, Kostas từng trải qua nhiều trận đánh quan trọng. Năm 1948, đơn vị ông chống càn tại Hương An - Bà Rén (Quảng Nam), tiêu diệt 200 quân đối phương. Vào tháng 11/1948, ông là người đầu tiên bắn rơi máy bay của Pháp tại Quảng Nam.
Ông cũng từng làm tổng giám thị trại tù binh Âu Phi số 3 ở Quảng Ngãi. Tháng 6/1950, Kostas được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay tại Trung đoàn 803 ở Tuy Hoà, Phú Yên. Thời gian này, Kostas lập gia đình, vợ là Huỳnh Thị Sơn, quê huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi), song không có con. Năm 1954, hòa bình lập lại, hai vợ chồng tập kết ra Bắc, ông vẫn trong quân ngũ, còn vợ vào phụ trách ở một nông trường tỉnh Thanh Hoá.
Tuy nhiên, do một số lý do khách quan, ông và bà Sơn chia tay. Năm 1956, ông phục viên, về làm cho một hãng phim và thỉnh thoảng còn được hãng mời đi đóng phim, các vai Pháp, Mỹ trong một số bộ phim truyện Việt Nam. Thời gian này, ông phải lòng thiếu nữ Hà thành Đỗ Thị Chung, xinh đẹp, nết na, mồ côi từ nhỏ, nhà ở ngay phố Lò Đúc. Họ thành hôn và sinh liền cho ông 4 người con.
Năm 1965, sau gần 20 năm sống ở Việt Nam, ông làm đơn xin hồi hương về Hy Lạp. Ông Lập cho biết: 4 người con của ông đều tên Việt Nam: Nguyễn Văn Thành, Nguyễn Thị Thuyết, Nguyễn Thị Bạch Nga và Nguyễn Tự Do. Năm 2005, nhân kỷ niệm 60 năm Quốc khánh, Chính phủ Việt Nam đã mời 2 vợ chồng ông về dự và đưa đi tham quan nhiều nơi. Trong đó ông được về thăm lại chiến trường xưa ở Quảng Nam, Quảng Ngãi…
Có lần, ông được tháp tùng Tổng thống Hy Lạp sang thăm Việt Nam. Ông cũng từng được các nhà lãnh đạo cao cấp như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết... tiếp thân mật. Ông cũng được Chính phủ Việt Nam tặng nhiều huân, huy chương. Đặc biệt, là danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân Việt Nam.
Tháng 8/2011, NXB Quân đội Nhân dân chính thức phát hành cuốn sách mang tên: “Chiến sĩ Quốc tế - Bộ đội cụ Hồ: Kostas Sarantidis - Nguyễn Văn Lập”. Cuốn sách gồm 3 phần. Hai phần đầu là hai tập hồi ký “Tại sao tôi theo Việt Minh và Ở một trại tù binh Nam Việt Nam” của ông. Kostas viết để tưởng nhớ lại những năm tháng chiến tranh tại Việt Nam, tưởng nhớ đến những người bạn, những con người đã hy sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, vừa là tôn vinh cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc Việt Nam, ca ngợi sự khoan hồng, nhân đạo của Nhà nước Việt Nam đối với những tù binh bị bắt…
Phần ba là “Câu chuyện nghĩa tình” về cảm nhận của đồng đội, bạn bè ông sau bao năm xa cách. Sau khi xuất bản, ông tự mình đi vận động Việt kiều, người thân và bạn bè Hy Lạp mua sách, rồi dành toàn bộ số tiền thu được đem về giúp trẻ em bị chất độc da cam cũng như hỗ trợ một số cựu chiến binh và cựu thanh niên xung phong ở thành phố Đà Nẵng. Hiện tại, ông vẫn ấp ủ cho ra đời một cuốn hồi ký nữa về Việt Nam để có thêm kinh phí giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn tại “quê hương thứ hai” của mình.
Kostas nói: 50 năm sống tại Hy Lạp rồi, nhưng ông vẫn luôn tự thấy mình là một người Việt Nam, càng tự hào hơn nữa mỗi khi nghĩ về danh hiệu cao quý mà ông đã từng mang “anh bộ đội cụ Hồ”.
Bài và ảnh Trần Trung Sáng