Cần phải quản lý chặt chẽ vàng
Từ thực tiễn, kinh nghiệm và nhất là bài học về quản lý vàng của Ấn Độ những năm gần đây cho thấy chủ trương của Chính phủ là hoàn toàn đúng đắn.
Lâu nay người dân Ấn Độ có truyền thống sử dụng, lưu trữ vàng trang sức, vàng đã trở thành một phần trong đời sống của người dân. Lượng vàng tiêu thụ của nước này luôn đứng đầu thế giới, năm 2010 Ấn Độ nhập khẩu 958 tấn vàng, năm 2011 số vàng nhập khẩu khoảng 800 - 850 tấn, cao hơn số lượng vàng nhập khẩu của Trung Quốc.
Theo dự đoán của các tổ chức quốc tế, Ấn Độ đang sở hữu một “núi” vàng từ nguồn dự trữ bằng vàng trong dân. Đến cuối năm 2011, tổng số vàng dự trữ trong dân của Ấn Độ lên tới 18.000 tấn, tương đương 920 tỷ USD, bằng khoảng 50% GDP của Ấn Độ năm 2010.
Chính sách quản lý vàng của Ấn Độ có nhiều thay đổi. Cuối những năm 90, Ấn Độ ban hành đạo luật mới về vàng, trong đó xóa bỏ toàn bộ các chính sách về hạn chế kiểm soát vàng, các chuyên gia gọi đây là chính sách toàn diện để giải phóng thị trường vàng. Trước hết Ấn Độ xóa bỏ tất cả các hạn chế về xuất, nhập khẩu vàng nhằm đối phó với các hoạt động buôn lậu vàng; Phát triển các thị trường giao dịch vàng vật chất và vàng phái sinh; Các NHTM và các tổ chức tài chính không những được phép xuất, nhập khẩu vàng mà còn được phép huy động tiền gửi đảm bảo bằng vàng...
Tuy nhiên, gần đây đã có những tín hiệu cho thấy chính sách giải phóng thị trường vàng của Ấn Độ bất ổn. Trước hết biểu hiện ở việc tỷ giá đồng Rupee biến động mạnh.
Theo tin từ mạng Tân hoa xã Trung Quốc (News) ngày 13/12/2011, do nền kinh tế Ấn Độ thiếu lạc quan, chỉ số sản xuất công nghiệp giảm sút, dẫn đến việc dòng vốn ngoại tháo chạy, làm cho đồng Rupee bị mất giá mạnh. Ngày 12/12/2011 tỷ giá đồng Rupee giảm xuống 52,84 Rupee/USD, ngày 23/12/2011 giảm tiếp xuống 53,21 Rupee/USD, đây là mức mất giá kỷ lục của đồng Rupee kể từ năm1996 trở lại đây.
Ấn Độ là nước thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi, Ngân hàng Trung ương không quy định tỷ giá mục tiêu, song để giữ cho nền kinh tế vĩ mô phát triển ổn định, Ngân hàng Trung ương buộc phải thực hiện một số biện pháp can thiệp nhằm ổn định tỷ giá như: Quyết định tăng lãi suất tiền gửi, cho vay; Hủy bỏ những hạn chế về mức giao dịch Option ngoại tệ để tăng cung ứng bằng đôla Mỹ; bán ngoại tệ ra can thiệp thị trường. Trong 2 ngày 9/12/2011 và ngày 10/12/2011 Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã bán ra gần 2 tỷ USD, song các cố gắng trên không có hiệu quả.
Do nhập khẩu một số lượng lớn vàng, không những làm cho đồng Rupee mất giá mà còn làm cho tình hình thâm hụt ngân sách của Ấn Độ gia tăng, thâm hụt cán cân thương mại lớn, ảnh hưởng xấu đến khả năng trả nợ nước ngoài. Mặt khác tiền tiết kiệm của dân tập trung vào mua vàng, không đầu tư vào các tài sản sinh lời khác.
Trước tình hình trên ngày 22/2/2012 Bộ Tài chính Ấn Độ buộc phải đưa ra quyết định từ ngày 1/4/2012 tăng thuế nhập khẩu vàng lên gấp đôi (4%), đồng thời thu thuế 0,3% đối với các giao dịch vàng nữ trang. Sau khi có quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng, các doanh nghiệp kinh doanh vàng Ấn Độ đã đồng loạt ngừng giao dịch trong 3 tuần để phản đối. Sau khi Chính phủ cam kết sẽ xem lại chính sách thuế, các doanh nghiệp kinh doanh vàng mới hoạt động trở lại, cho đến nay thị trường vàng Ấn Độ vẫn chưa hoạt động bình thường.
Trong lịch sử của vàng, đồng đôla Mỹ và vàng có mối quan hệ chặt chẽ, một mặt đôla Mỹ được chọn là đồng tiền định giá và là đồng tiền thanh toán khi mua bán vàng, mặt khác vàng và đôla Mỹ được chọn là đối tượng đầu tư an toàn có thể thay thế. Những năm gần đây giá vàng biến động ít phụ thuộc vào yếu tố cung cầu, mà chủ yếu phụ thuộc vào sự mất giá của tiền tệ. Sau khi đồng đôla Mỹ không gắn với vàng, Mỹ đã không giữ đúng cam kết mà còn lạm dụng việc in tiền để giải quyết các khó khăn của mình, làm cho đồng đôla Mỹ mất giá và giá vàng tăng lên liên tục. Từ ngày 15/7/1971, Hiệp ước Bretton Woods chấm dứt, một số chuyên gia đã vội vã cho rằng chế độ Bretton Woods sụp đổ đánh dấu sự thụt lùi của vàng, vàng bị đẩy ra khỏi lưu thông và trở thành thứ hàng hóa thông thường. Tuy nhiên trên thực tế vàng vẫn là thứ hàng hóa đặc biệt, có dấu hiệu tiền tệ, là nguồn dự trữ quan trọng cho mọi quốc gia.
Trước tình hình đồng đôla Mỹ mất giá, nền kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, Ngân hàng Trung ương nhiều nước đã tăng cường mua vàng vào dự trữ. Theo số liệu do Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố, trong 3 quý đầu năm 2011, Ngân hàng Trung ương các nước đã mua vào 208,9 tấn vàng. Cho nên nếu coi vàng là hàng hóa thông thường chịu tác dộng của quy luật thị trường, yếu tố cung cầu sẽ quyết định giá cả, quan điểm này không còn phù hợp. Việc Ấn Độ giải phóng thị trường vàng, không có hạn chế nào về xuất, nhập khẩu vàng chính là nhằm mục tiêu cân bằng yếu tố cung - cầu để ổn định giá vàng, đây là một sai lầm lớn vì vàng vẫn còn vai trò tiền tệ, càng nhập khẩu nhiều vàng, nhu cầu ngoại tệ càng tăng, thâm hụt cán cân vãng lai càng lớn và việc mất giá của đồng Rupee là khó tránh khỏi.
Quay trở lại lý luận về lưu thông tiền tệ, vàng luôn được coi là hàng hóa đặc biệt có giá trị tiền tệ, vàng là tiền thật. Việc phát hành tiền giấy lâu nay được NHNN quản lý rất chặt chẽ để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Vậy đối với vàng, NHNN càng phải quản lý chặt chẽ hơn, nếu buông lỏng quản lý vàng hậu quả sẽ rất lớn, không những làm cho lạm phát thêm trầm trọng mà còn làm cho cán cân vãng lai thâm hụt, tỷ giá mất ổn định và nền kinh tế vĩ mô rối loạn.
Phí Đăng Minh