Chính sách tiền tệ: Giải pháp, liều lượng và thời điểm được cân nhắc rất kỹ lưỡng
3 lần giảm lãi suất thể hiện sự quyết liệt trong điều hành của NHNN |
Việc đưa vốn đến với doanh nghiệp còn khó khăn
Dẫn thực tế từ ngành nuôi tôm, đại biểu Nguyễn Quốc Hận (Cà Mau) cho biết, do kinh tế khó khăn, thắt chặt chi tiêu và đứt gãy nguồn cung ứng nên người nuôi tôm không tiêu thụ được sản phẩm hoặc phải bán với giá rất rẻ, trong khi giá nguyên liệu đầu vào tăng cao nên sản phẩm bán ra không đủ để bù đắp chi phí đầu vào, dẫn đến nhiều hộ nuôi tôm đang lao đao, có nguy cơ vỡ nợ.
Đại biểu Nguyễn Quốc Hận. |
Nhìn rộng hơn, đại biểu này cho rằng không chỉ doanh nghiệp thủy sản mà doanh nghiệp các ngành khác cũng trong tình trạng tương tự.
“Do thị trường bị thu hẹp, đơn hàng giảm mạnh, cạnh tranh trên trường quốc tế gia tăng nên phải cắt giảm lao động, giảm giờ làm, nghỉ việc luân phiên, làm ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động”, đại biểu Nguyễn Quốc Hận nói và cho rằng thực trạng trên là có nguyên nhân từ suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng một phần đến từ các vấn đề nội tại, trong đó có vấn đề tắc nghẽn dòng vốn, với mặt bằng lãi suất tăng nhanh nửa cuối năm 2022 (từ tháng 7/2022 lãi suất tăng cao và ở mức trung bình 12%/năm, thậm chí có nơi lên đến 14%/năm).
Cùng quan điểm, đại biểu Lê Hữu Trí (Khánh Hòa) cho rằng xu hướng doanh nghiệp thiếu đơn hàng, người lao động mất việc làm tại nhiều khu công nghiệp có thể diễn biến phức tạp hơn trong thời gian tới.
Theo đại biểu, có nhiều nguyên nhân và bên cạnh nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân dòng vốn từ thị trường tài chính suy giảm.
Đại biểu Lê Hữu Trí. |
Vị đại biểu cũng dẫn kết quả khảo sát của VCCI, theo đó những khó khăn hàng đầu mà doanh nghiệp gặp phải là tiếp cận vốn vay có nhiều trở ngại (bao gồm cả tín dụng, nguồn vốn lãi suất ưu đãi của Chính phủ và nguồn vốn từ Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa), từ đó cho rằng đây cũng là một trong những yếu tố làm cho doanh nghiệp đã khó khăn lại càng khó khăn hơn.
Trong khi đó theo đại biểu Tô Ái Vang (Sóc Trăng), từ đầu năm 2023 đến nay, đã có 3 đợt giảm lãi suất điều hành. Đây được xem là sự nỗ lực rất lớn của NHNN để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc đưa vốn đến với doanh nghiệp còn khó khăn.
Về nguyên nhân, đại biểu Tô Ái Vang cho rằng hiện nay hệ thống ngân hàng đang đối mặt với 3 tác động chính. Một là, tín dụng vẫn là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế.
“Trong khi hệ thống ngân hàng huy động khoảng 88% tiền gửi với kỳ hạn 12 tháng trở xuống nhưng vẫn phải đáp ứng trên 52% dư nợ tín dụng của cả hệ thống là trung hạn và dài hạn nên tạo sức ép lên lãi suất huy động, đồng thời do mặt bằng giá cả thế giới gia tăng, buộc các ngân hàng lớn trên thế giới vẫn tiếp tục triển khai lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ và duy trì lãi suất ở mức cao”, đại biểu cho biết.
Đại biểu Tô Ái Vang |
Hai là, thực tế hệ thống ngân hàng vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, nâng cấp chuẩn mực quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế.
Ba là, các doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn vay vì không còn tài sản đảm bảo hoặc tình hình tài chính yếu kém. Nhiều doanh nghiệp không được giải ngân, chuyển sang nhóm nợ xấu do ngân hàng vẫn phải đảm bảo khả năng thanh toán tài sản thế chấp.
Nhìn lại điều hành lãi suất trong bối cảnh áp lực rất lớn
Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng |
Trong phát biểu giải trình, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng thẳng thắn lý giải một số nội dung mà đại biểu quan tâm. Thống đốc cho biết trong năm 2022 và 2023, việc điều hành chính sách tiền tệ có nhiều diễn biến mới phức tạp hơn, khó khăn hơn và khó lường hơn so với thời điểm mà Quốc hội và Chính phủ ban hành nghị quyết. Trong khi chính sách tiền tệ cũng được giao khá nhiều nhiệm vụ và những nhiệm vụ này khó có thể đạt được cùng một lúc. Và trong điều kiện đó thì NHNN đã kiên định xuyên suốt với mục tiêu “giữ đại cục”, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và theo dõi sát diễn biến, tình hình để quyết định những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm trong từng thời kỳ, từng giai đoạn để ứng phó linh hoạt.
Đối với điều hành lãi suất, có thể nói rằng nhu cầu giảm lãi suất là mong muốn của doanh nghiệp và Quốc hội, Chính phủ cũng rất quan tâm chỉ đạo và NHNN cũng rất mong muốn. Tuy nhiên, điều hành lãi suất cũng cần phải được xem xét trong tổng thể điều hành chính sách kinh tế vĩ mô để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ và đặc biệt là đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Năm 2022, có 2 lý do rất quan trọng để chúng ta phải chấp nhận mặt bằng lãi suất cao hơn. Thứ nhất, lãi suất trên toàn cầu đồng loạt tăng nhanh và mạnh. Trong nước, lạm phát bình quân năm 2022 tăng 3,15%, tuy là thấp so với mục tiêu nhưng vẫn cao hơn so với mức 1,84% năm 2021. Đặc biệt là trong nửa cuối năm 2022, lạm phát có xu hướng tăng nhanh từng tháng, đặc biệt lạm phát cơ bản bình quân cao hơn so với năm 2021. Chính vì vậy, thời điểm đó điều hành không thể chủ quan với lạm phát.
Thứ hai, áp lực mất giá của đồng Việt Nam rất lớn trong năm 2022 khi các nước thắt chặt chính sách tiền tệ và đồng đôla tăng giá rất mạnh.
“Vào thời điểm tháng 9, tháng 10 năm ngoái, đồng Việt Nam áp lực mất giá lên đến 9-10%. Cho nên, nếu chúng ta không có những giải pháp linh hoạt và đồng bộ thì khó có thể ổn định được mức tỷ giá chỉ mất giá 3,5% trong năm 2002”, Thống đốc cho biết.
Nếu để đồng Việt Nam mất giá trên 10% thì điều gì sẽ xảy ra? Doanh nghiệp sẽ vô cùng khó khăn, bởi vì doanh nghiệp sản xuất phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật liệu từ nước ngoài, nếu tỷ giá tăng cộng hưởng với mặt bằng giá thế giới tăng cao thì chi phí đầu vào sẽ tăng cao và chắc chắn lạm phát sẽ tăng cao, chưa kể đến việc doanh nghiệp Việt Nam cũng vay một lượng lớn vốn nước ngoài và nghĩa vụ trả nợ sẽ tăng lên, sẽ rất khó khăn.
Khi ổn định được tỷ giá trở lại và với điều kiện tăng chậm lại của lạm phát thì trong những tháng đầu năm 2023, NHNN đã rất quyết liệt với 3 lần điều chỉnh các lãi suất điều hành, qua đó đưa mặt bằng lãi suất của các khoản cho vay mới giảm bình quân khoảng 0,9% so với cuối năm 2021.
Đối với điều hành tín dụng cũng vậy. Vào tháng 10 năm ngoái là thời điểm diễn ra sự kiện rút tiền hàng loạt tại SCB, chưa từng có trong lịch sử và nguy cơ tác động lan truyền đến hệ thống ngân hàng rất lớn. Trong bối cảnh đó, NHNN đã quyết định phải tập trung ưu tiên vừa ổn định thị trường ngoại hối và đặc biệt phải đảm bảo an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng và đảm bảo chi trả cho người dân. Theo đó, tất cả các giải pháp phải hướng đến vấn đề đó, như vậy không thể điều chỉnh room tín dụng vào thời điểm tháng 10. Sau khi thanh khoản ổn định trở lại, NHNN mới điều chỉnh tăng trưởng tín dụng.
Với những diễn biến trong sự đổ vỡ của một số ngân hàng Mỹ vừa qua cũng như Credit Suisse cho thấy, ưu tiên đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng là một điều hết sức đúng đắn và các cấp có thẩm quyền rất quan tâm.
“Những giải pháp, liều lượng chính sách và thời điểm được NHNN cân nhắc rất kỹ lưỡng, tất cả để hướng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống và tạo môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp và người dân, không vì mục tiêu nào khác”, Thống đốc nhấn mạnh.
Tiếp cận tín dụng: “Mổ xẻ” để có giải pháp đúng
Về vấn đề tiếp cận tín dụng, Thống đốc cho biết cơ chế, chính sách cho vay vẫn giữ nguyên, không có gì thay đổi. Năm 2022, tăng trưởng tín dụng là 14,16% nhưng 5 tháng đầu năm của 2023 chỉ tăng khoảng 3%. Do đó, không thể nói rằng đây là do chính sách (vì không có gì thay đổi).
Còn về phía các tổ chức tín dụng, những tháng đầu năm dư địa về room tín dụng cũng rất thoải mái, thanh khoản hệ thống được NHNN duy trì dư thừa và không có lý do gì để các tổ chức tín dụng huy động tiền gửi, trả lãi cho người gửi tiền mà khi doanh nghiệp đủ điều kiện vay vốn lại không cho vay.
Từ phía doanh nghiệp, NHNN thấy có một số nhóm doanh nghiệp như sau: Nhóm các doanh nghiệp khó khăn đầu ra sản xuất; Nhóm doanh nghiệp khó khăn, không đủ điều kiện vay vốn; Nhóm doanh nghiệp xây dựng bất động sản…
Theo Thống đốc, đối với các doanh nghiệp không có đầu ra, không có đơn hàng, giải pháp là phải tháo gỡ khó khăn đầu ra. Vừa rồi Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt thúc đẩy xúc tiến thương mại, tuy nhiên việc này cũng cần phải có thời gian cho nên doanh nghiệp cũng như các cơ quan cũng cần hướng đến để khai thác thị trường nội địa với 100 triệu dân để thay thế cho sự suy giảm của cầu nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp rất khó khăn sau đại dịch COVID-19, không đủ điều kiện vay vốn thì cũng không thể tiếp cận được vốn ngân hàng, theo đó cần có các giải pháp để cải thiện điều kiện vay vốn, có thể thông qua các chính sách như bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ,…
Đối với lĩnh vực bất động sản, thường tăng trưởng tín dụng vào lĩnh vực này cao hơn so với mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, nhưng với những khó khăn của thị trường bất động sản hiện nay với 70% là khó khăn về pháp lý, cho nên giải pháp bây giờ phải tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý, cộng với các doanh nghiệp cần phải rà soát để điều chỉnh giá bất động sản. Như vậy sẽ kích thích tín dụng cho cả doanh nghiệp xây dựng bất động sản cũng như người mua nhà.
“Về phía NHNN, trong những tháng đầu năm, khi điều kiện thuận lợi và cầu tín dụng thấp, NHNN đã điều hành để duy trì thanh khoản dồi dào, điều chỉnh giảm lãi suất điều hành, ban hành thông tư để cho phép cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát để giảm thủ tục hành chính, cho vay căn cứ trên cơ sở phương án khả thi, có khả năng trả nợ và cũng không nhất thiết phải có tài sản đảm bảo”, Thống đốc nói.
Cũng liên quan đến cải thiện tiếp cận tín dụng, NHNN rất quan tâm đến thông tin nêu trong báo cáo PCI năm 2022 của VCCI. Dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu điều tra của báo cáo là 82.510 doanh nghiệp được lựa chọn. Đây là con số nhỏ trong tổng số khoảng 800 - 900 nghìn doanh nghiệp của cả nền kinh tế. Đáng chú ý hơn, trong đó liên hệ thành công chỉ được 43.903 doanh nghiệp mời trả lời trực tuyến, và kết quả là chỉ có 8.478 doanh nghiệp phản hồi hợp lệ trong số 43.903 doanh nghiệp.
“Vậy kết quả này có phản ánh được một bức tranh về doanh nghiệp hay không khi tỷ lệ phản hồi hợp lệ chỉ chiếm 1% trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, đây cũng là một vấn đề cần quan tâm”, Thống đốc nói.
Về tái cơ cấu ngân hàng yếu kém, có thể nói rằng đây là một việc tồn đọng và rất khó xử lý, trong điều kiện bình thường đã rất khó, mà trong điều kiện khó khăn như hiện nay lại càng khó hơn. Tuy nhiên, Thống đốc cho biết Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ rất quyết liệt thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đã họp với ngân hàng đầu tiên và cũng yêu cầu phải tiến hành quyết liệt các giải pháp để tái cơ cấu. Cho đến nay, các ngân hàng yếu kém đã trình xin chủ trương cấp có thẩm quyền và hiện nay NHNN cũng như các bộ, các ngành dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đang thực hiện rất quyết liệt các bước trước khi phê duyệt đề án chi tiết theo đúng chủ trương của cấp có thẩm quyền và theo đúng quy định của pháp luật.