Cần xem xét cơ chế ưu tiên cho các TCTD phát triển tín dụng xanh
Dư nợ tín dụng xanh mỗi năm tăng bình quân 22% Nắn dòng tín dụng xanh Rào cản ESG với sản phẩm xuất khẩu: Lộ trình chuyển đổi và giải pháp kỹ thuật cho các doanh nghiệp |
Ngành Ngân hàng đóng góp đáng kể thực hiện tăng trưởng xanh
Trong bản kiến nghị quý II/2024, các chuyên gia trường đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng, tăng trưởng xanh có thể giải quyết đồng thời các vấn đề giữa tăng trưởng và môi trường - xã hội, bảo đảm phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường xung quanh. Hiện nay, phát triển bền vững cùng với tăng trưởng xanh đang trở thành xu hướng phát triển đặc trưng của các quốc gia trên thế giới. Ngoài việc áp dụng chiến lược phát triển kinh tế xanh, nhiều quốc gia còn tập trung vào các hoạt động công nghiệp giảm phát thải, ô nhiễm không khí và bảo tồn năng lượng.
Tại Việt Nam, ngành Ngân hàng đóng góp đáng kể vào việc thực hiện tăng trưởng xanh với vai trò là công cụ khuyến khích đầu tư tài chính vào các dự án thân thiện với môi trường. Vì thế, mô hình tín dụng xanh được xem là công cụ tài chính có ý nghĩa quan trọng trong việc tác động đến hành vi bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp và ngăn chặn sự phát triển không kiểm soát của các doanh nghiệp gây ô nhiễm, nguy hại đến môi trường. Từ thực tế trên, nhóm nghiên cứu đề xuất, trong thời gian tới, cần hoàn thiện khung pháp lý, cụ thể hóa các tiêu chí xác định dự án “xanh”.
Cần cơ chế ưu tiên tạo động lực cho các nhà băng tăng cường thúc đẩy tín dụng xanh phục vụ cho mục tiêu phát triển bền vững, ảnh: ST |
Khung pháp lý và thể chế liên quan đến tín dụng xanh, ngân hàng xanh đã ngày càng được hoàn thiện, nhưng còn mang tính định hướng, chưa có yêu cầu cụ thể với các TCTD về đánh giá yếu tố môi trường và xã hội khi thẩm định tín dụng. Theo đó, cần có những quy định rõ ràng, chính xác về các vấn đề liên quan đến tín dụng xanh. Hiện các văn bản quy phạm pháp luật thường chỉ đưa ra các quy định khung chung, ít quy định cụ thể, chi tiết về các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng xanh của các TCTD. Bên cạnh đó là xây dựng hướng dẫn về danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án như thế nào là xanh. Đây là cơ sở để các TCTD căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án.
Ngoài ra, cần thống nhất các quy định, định nghĩa cụ thể về các danh mục, ngành lĩnh vực xanh có thể áp dụng chung trên cả nước. Điều này cũng sẽ giảm khó khăn cho các TCTD trong việc lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh, xác định các lĩnh vực xanh, dự án xanh để thẩm định cho vay.
Đồng bộ chính sách ưu tiên cho phát triển xanh
Theo nhóm nghiên cứu, các bộ, ngành liên quan cũng cần xây dựng lộ trình cụ thể cho việc thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ các lĩnh vực, ngành xanh về thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, quy hoạch, chiến lược phát triển... của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh. Cơ chế hỗ trợ có thể thực hiện là cho phép bảo lãnh các khoản tín dụng xanh hoặc thành lập định chế tài chính đặc biệt trong cấp tín dụng xanh vào các dự án trọng điểm.
Chính phủ cũng có thể nghiên cứu thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển bền vững cho các dự án xanh trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước và rà soát lại hệ thống các chính sách hiện hành để đảm bảo tập trung, tránh phân bổ nguồn lực dàn trải. Cùng với đó, nghiên cứu cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn xanh. Nguồn vốn cho các hoạt động xanh của ngân hàng hiện nay còn khá hạn chế. Bên cạnh đó, các dự án bảo vệ môi trường, phát triển bền vững thường có thời gian thu hồi vốn chậm, trong khoảng thời gian dài. Trong khi đó, nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại là vốn ngắn hạn, huy động theo chi phí vốn thương mại trên thị trường nên dẫn đến hiện tượng chi phí cao.
Do vậy, cần có chính sách hỗ trợ các TCTD tiếp cận các nguồn vốn dài hạn, với lãi suất ưu đãi, đồng thời kêu gọi nguồn lực quốc tế cho việc cung ứng vốn cho các dự án xanh. Có thể cân nhắc cho phép không tính nguồn vốn để cho vay các dự án xanh vào tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và ưu đãi tái cấp vốn, tái chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với phần nguồn vốn ngân hàng huy động để tài trợ cho các dự án tín dụng xanh. Tăng giới hạn tăng trưởng tín dụng cho các ngân hàng đạt tiêu chuẩn ngân hàng xanh để hướng đến tài trợ cho các phương án/dự án xanh nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững mà Chính phủ và NHNN đã đặt ra.
Đồng thời, ban hành các chính sách ưu đãi đối với các TCTD thực hiện cung cấp tín dụng xanh. Đơn cử, NHNN cần nghiên cứu đưa ra các chính sách ưu đãi như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng “room” tín dụng, tăng cơ hội và khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi. Ngoài ra, cơ quan quản lý cần xem xét không tính nguồn vốn cung ứng cho các dự án đầu tư xanh vào tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn, thực hiện tái cấp vốn, tái chiết khấu với các ưu đãi về thời hạn, lãi suất, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các ngân hàng có hoạt động tín dụng xanh. Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ này cần được NHNN cân nhắc thận trọng, linh hoạt theo hướng vừa đảm bảo được nguồn vốn cho tín dụng xanh vừa đảm bảo ổn định các mục tiêu trong điều hành chính sách tiền tệ.
Về phía các TCTD, nhóm nghiên cứu cũng khuyến nghị cần phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng xanh. Đây là một cơ sở quan trọng cho việc nâng cao tính cạnh tranh giữa các TCTD trong lĩnh vực tín dụng xanh; chủ động lựa chọn các sản phẩm dịch vụ mà các quốc gia đi trước đã thực hiện thành công, tiến hành điều chỉnh phù hợp thực tiễn của Việt Nam và tổ chức mình để xây dựng thành danh mục sản phẩm dịch vụ riêng của tổ chức; liên kết hợp tác với công ty nghiên cứu thị trường có uy tín, thực hiện công tác khảo sát thị trường để có thể đánh giá chính xác nhu cầu và xu hướng sử dụng sản phẩm dịch vụ tín dụng xanh của khách hàng ở hiện tại và trong tương lai.