Di sản thế giới: Thách thức về bảo tồn và phát huy giá trị
Thách thức bảo tồn
Việt Nam hiện có 8 khu di sản văn hóa, thiên nhiên thế giới, tất cả đều đã có quy hoạch bảo tồn được phê duyệt. Dù vậy, một số quy hoạch như quần thể di tích cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, khu đền tháp Mỹ Sơn đã hết thời hạn vào năm 2020, đến nay đang tiếp tục xây dựng hoặc đề nghị kéo dài thời hạn thực hiện. Đối với khu đền tháp Mỹ Sơn, trong giai đoạn 2008-2020, kinh phí đầu tư bảo tồn, trùng tu di tích từ ngân sách rất thấp, chủ yếu là các dự án tài trợ nước ngoài và cũng chỉ đạt 15-20% so với quy hoạch được phê duyệt vào năm 2008. Thời gian qua, nguồn lực đầu tư cho bảo tồn các di sản thế giới có xu hướng giảm dần vì nhiều lý do. Theo đánh giá của các đơn vị quản lý 8 khu di sản thế giới của Việt Nam nói trên, kinh phí hiện tại cơ bản đảm bảo cho công tác quản lý và một phần hoạt động bảo tồn trong giai đoạn trung hạn. Tuy nhiên, về dài hạn, các khu di sản này cần được hỗ trợ nhiều hơn để có thể hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Ban quản lý di sản văn hóa Mỹ Sơn dành kinh phí được trích lại cho các hoạt động dân sinh phục vụ người dân tại chỗ |
Các khu di sản thế giới đóng góp rất lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả khu vực mà nó tọa lạc, đồng thời, bản thân nó cũng rất dễ bị tổn thương. Thế nhưng, hiện cơ chế để bảo vệ các di sản này vẫn chưa được hoàn thiện. Ông Nguyễn Viết Cường-Cục Di sản văn hóa (Bộ VH-TT&DL) cho hay, thực tế một số ban quản lý di sản thế giới ở nước ta còn thiếu các bộ phận chức năng đảm bảo thực thi nhiệm vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản thế giới. Các ban quản lý này là đơn vị sự nghiệp công lập, không có chức năng quản lý nhà nước nên không thể trực tiếp xử lý biện pháp hành chính để xử lý kịp thời các hành vi xâm hại với di sản.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Trần Văn Tân chia sẻ, với không gian, giá trị đặc thù của các khu di sản thế giới thì rất cần các cơ chế đặc thù để phát huy tối đa giá trị. Muốn vây, cần có một hành lang pháp lý vững chắc hơn nữa để điều tiết được các mối quan hệ nảy sinh giữa yêu cầu bảo tồn và phát triển, đồng thời phù hợp với đặc thù của các khu di sản văn hóa thế giới. Quảng Nam vẫn đang tích cực xây dựng cơ chế đặc thù bảo tồn, phát huy giá trị di sản thế giới đô thị cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn.
Đại diện cục di sản văn hóa cho biết, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý di sản thế giới tại Việt Nam theo quan điểm phát triển bền vững của UNESCO, trong thời gian tới cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau như hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản thế giới, đảm bảo sự thống nhất, hạn chế sự chồng chéo trong công tác quản lý. Bên cạnh việc quy định về bảo vệ và phát huy giá trị di sản, cần có những quy định cụ thể về chính sách hỗ trợ tu bổ, tôn tạo, hỗ trợ cộng đồng sinh sống trong di sản; Tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh trong khu vực di sản, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng. Đồng thời, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá, giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao nhận thức của cộng đồng trong việc chấp hành các quy định của pháp luật về bảo vệ di sản thế giới.
Dung hòa bảo tồn với phát triển
Từ chỗ đón hơn 18 triệu lượt khách với tổng doanh thu bán vé tham quan, dịch vụ đạt hơn 2.320 tỷ đồng (năm 2019), 8 khu di sản thế giới ở Việt Nam rơi vào cảnh đìu hiu trong hai năm 2020 và 2021 bởi tác động nặng nề của đại dịch Covid-19 và chỉ bước đầu khởi sắc lại trong năm 2022.
Theo bà Phạm Thị Thanh Hường - Trưởng ban Văn hóa - xã hội (Văn phòng UNESCO tại Hà Nội), hiện hệ thống di sản thế giới ở nước ta vẫn đứng trước các thách thức lớn là dung hòa giữa bảo tồn với phát triển và biến đổi khí hậu. Hiệu ứng lò xo trong các hoạt động du lịch, tham quan, khai thác dịch vụ thời kỳ hậu đại dịch Covid-19 sẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các không gian di sản. Trong khi đó, nguồn lực tái thiết, nguồn nhân lực, khả năng thích nghi và các biện pháp ứng phó sau thời gian dài hạn chế mở cửa vẫn là dấu hỏi lớn đối với các khu di sản thế giới tại Việt Nam.
PGS-TS.Đặng Văn Bài - Phó Chủ tịch Hội đồng di sản văn hóa quốc gia nhìn nhận: Di sản văn hóa được thừa nhận là “nguồn vốn” cả về vật chất lẫn tinh thần cho sự phát triển bền vững. Đã là “nguồn vốn” thì cần có cách tiếp cận theo hướng “kinh tế học di sản” để tạo lập sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển. Đã đến lúc tất cả khu di sản thế giới ở nước ta cần nghiên cứu nghiêm túc giới hạn chịu tải của môi trường và giới hạn chịu tải về du lịch để làm cơ sở xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn hóa với môi trường sinh thái - nhân văn của các khu di sản”.
Cụ thể hơn, ông Phan Hộ, Giám đốc Ban quản lý di sản văn hóa Mỹ Sơn (Quảng Nam) cho hay, hàng năm, địa phương dành 5% kinh phí từ vé tham quan được trích lại cho các hoạt động dân sinh phục vụ người dân tại chỗ cùng hàng trăm triệu đồng hỗ trợ cho hoạt động cộng đồng; lao động địa phương được đào tạo nghề tham gia vào các dự án trùng tu; các làng nghề truyền thống được duy trì. Các hoạt động văn hóa - kinh tế không tách rời với đời sống cộng đồng, cùng cộng đồng chia sẻ trách nhiệm với đơn vị quản lý và được quyền thụ hưởng các giá trị mang lại. Đây là mục tiêu mà mỗi di sản hướng đến và phù hợp với khuyến cáo của UNESCO.
Theo Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL Hoàng Đạo Cương. Có thể khẳng định, các di sản thế giới tại Việt Nam đã được các địa phương quản lý, bảo vệ bền vững nhằm trao truyền lại cho thế hệ tương lai theo đúng tinh thần Công ước Di sản Thế giới, cũng như pháp luật về di sản văn hóa. Tuy nhiên, hoạt động quản lý, bảo vệ, phát huy giá trị di sản thế giới vẫn chưa thực sự tương xứng và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn; di sản vẫn đang đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Vấn đề này phải được tiếp cận liên ngành và giải quyết từ nhiều góc độ khác nhau.