Doanh nghiệp vững mạnh - Quốc gia hùng cường, thịnh vượng
Ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. (Ảnh: Hoàng Giáp) |
Đại dịch Covid-19 có thể coi như một lần “thử lửa” đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Ông nhận định như thế nào về vấn đề này?
Cùng chung bối cảnh với thế giới, nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp ở Việt Nam đang trải qua giai đoạn vô cùng khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Tăng trưởng năm 2021 chỉ ở mức 2,58%, thấp hơn cả mức tăng trưởng 2,91% của năm 2020 đã phản ánh những khó khăn do dịch Covid-19 gây ra đối với nền kinh tế.
Đối với khu vực doanh nghiệp, sự bùng phát mạnh của làn sóng Covid-19 lần thứ tư đã khiến cho số liệu doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong năm 2021 giảm 10,7% so với năm 2020 (gần 160 ngàn doanh nghiệp); trong khi có tới 119,8 ngàn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 17,8%. Trong đó quý III/2021 là giai đoạn căng thẳng nhất, sức khoẻ của các doanh nghiệp gần như chạm đáy.
Tuy nhiên, sau cuộc gặp gỡ giữa Thủ tướng với cộng đồng doanh nghiệp cả nước do VCCI tổ chức ngày 26/9/2021, Chính phủ đã hành động rất nhanh, rất quyết liệt và kịp thời ban hành Nghị quyết 128/NQ-CP quy định tạm thời “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19”, tình hình “sức khỏe” của doanh nghiệp đã dần được cải thiện. Số liệu về tình hình đăng ký doanh nghiệp cho thấy, sau khi Nghị quyết 128/NQ-CP được ban hành, chỉ trong 10 ngày cuối cùng của kỳ báo cáo tháng, số doanh nghiệp gia nhập thị trường đã chiếm 45,6% (3.753 doanh nghiệp) tổng số doanh nghiệp thành lập mới trong tháng. Số doanh nghiệp thành lập mới trong tháng 11/2021 tăng 44,6% so với tháng 10/2021 và tăng lần lượt 106,6% và 205,3% so với tháng 8/2021 và tháng 9/2021 (thời điểm giãn cách xã hội được thực hiện tại nhiều địa phương). Tháng 11/2021 cũng là tháng có số lượng doanh nghiệp gia nhập thị trường cao nhất kể từ tháng 4/2021, khi làn sóng dịch bệnh Covid-19 bùng phát lần thứ tư ở nước ta.
Chỉ số Nhà Quản trị Mua hàng (PMI) ngành sản xuất của Việt Nam đã tăng trở lại lên trên ngưỡng trung bình đạt trên 52 điểm trong hai tháng 10 và 11 sau khi chỉ đạt 40,2 điểm trong tháng 9 cho thấy các điều kiện kinh doanh cải thiện tháng thứ hai liên tiếp sau thời kỳ giảm do làn sóng đại dịch Covid-19. Niềm tin kinh doanh cũng tăng. Điều này cho thấy tính đúng đắn của quyết định thay đổi sang chiến lược thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 với các biện pháp mở cửa theo lộ trình, phục hồi kinh tế của Chính phủ.
Để hỗ trợ các doanh nghiệp, Chính phủ và các bộ, ngành đã có nhiều giải pháp. Theo ông, những giải pháp này đã hỗ trợ thế nào cho doanh nghiệp?
Trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, dù ngân sách nhà nước rất eo hẹp, nhưng Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó đặc biệt phải kể đến Nghị quyết số 406 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành một số giải pháp nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân chịu tác động của dịch Covid-19 và Nghị quyết 105/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh trong bối cảnh dịch Covid-19.
Các gói hỗ trợ này bao gồm: Chính sách tiền tệ, trọng tâm là cơ cấu lại nợ, miễn, giảm lãi suất, hỗ trợ tín dụng, có quy mô, chính sách hỗ trợ bảo đảm an sinh xã hội; chính sách tài khóa, trọng tâm là gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trả lương cho người lao động…
Nhìn chung, các doanh nghiệp đánh giá cao đối với các nhóm giải pháp hỗ trợ đưa ra, nhất là các nhóm giải pháp trong Nghị quyết 105/NQ-CP. Điều này chứng tỏ các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đã tiếp cận gần hơn với thực tiễn của doanh nghiệp. Trong bối cảnh các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn hiện nay, các chính sách hỗ trợ này như những liều thuốc bổ tiếp sức cho các doanh nghiệp.
Ngân hàng là một trong những ngành đã đưa ra các giải pháp từ rất sớm để hỗ trợ doanh nghiệp như cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ, miễn, giảm lãi suất, phí, cho vay mới với lãi suất thấp… Ông đánh giá thế nào về các chính sách nói trên cũng như mong mỏi, kỳ vọng của cộng đồng doanh nghiệp thời gian tới?
Trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 tác động nặng nề đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, ngành Ngân hàng vừa qua đã luôn bám sát diễn biến của thị trường, nhu cầu của doanh nghiệp, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt qua những khó khăn trong thời gian vừa qua. So với năm 2020, mức lãi suất giảm năm 2021 đã có những chuyển biến tích cực.
Một trong những chính sách đáng chú ý của ngành Ngân hàng được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao thời gian qua là chính sách khoanh nợ, hỗ trợ các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh khi không thể trả nợ đúng hạn và không bị chuyển nhóm nợ. Đây là chính sách rất tốt, giúp duy trì năng lực cho doanh nghiệp khi tiếp cận vốn.
Về kỳ vọng sắp tới, cộng đồng doanh nghiệp mong rằng các nhóm chính sách như chương trình cho vay, hỗ trợ lãi suất được triển khai mạnh mẽ hơn nữa, đặc biệt là cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp về thủ tục cấp tín dụng và có các gói tín dụng lãi suất ưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực kinh tế trọng điểm của quốc gia.
Trong thời gian tới VCCI sẽ đồng hành cùng NHNN tham mưu cho Chính phủ ban hành các chính sách định hướng luồng vốn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh thực. Mặc dù có thể có những doanh nghiệp đang gặp những khó khăn ngắn hạn, song lúc này ngân hàng phải làm sao nhìn thấy được lợi ích dài hạn của doanh nghiệp để từ đó kịp thời dẫn vốn, “tiếp máu” cho doanh nghiệp sớm vượt qua đại dịch.
Mặc dù chiếm một số lượng lớn, nhưng khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa đóng góp đến một nửa GDP. Theo ông chúng ta cần phải làm gì để thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân trong thời gian tới?
Sự nghiệp đổi mới hơn 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cho thấy đóng góp quan trọng của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường thế giới.
Đáng chú ý là đến nay khu vực tư nhân đã xuất hiện trong rất nhiều các lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả những lĩnh vực vốn được xem là “sân chơi” riêng của các doanh nghiệp nhà nước hoặc các đơn vị sự nghiệp trước nay như sân bay, cảng biển, hạ tầng giao thông, hàng không, điện lực, y tế, giáo dục, thể thao, điện ảnh, công chứng…
Trong bối cảnh dịch bệnh nghiêm trọng như hai năm vừa qua, doanh nghiệp tư nhân một mặt trụ vững, đảm bảo được việc làm cho người lao động, bảo vệ sức khoẻ nhân viên của mình, tiếp tục đóng góp ngân sách quốc gia, đây còn là khu vực đóng góp trực tiếp nguồn lực để phòng chống dịch bệnh. Các doanh nghiệp tư nhân đi đầu để hỗ trợ nhà nước ngân sách mua vaccine, trang thiết bị y tế, thuốc chữa bệnh và các hoạt động phòng chống dịch.
Khi nói đến kinh tế tư nhân, nhiều người vẫn hiểu hơi phiến diện là khu vực kinh tế tư nhân chính thức (tức là những doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp), với đóng góp chỉ ở mức trên dưới 10-11% GDP. Trong khi đó, GDP của khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) những năm vừa qua đã lên mức hơn 20% GDP. Khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam hiện nay ngoài khoảng 850.000 doanh nghiệp đăng ký chính thức thì còn có gần 5,6 triệu hộ kinh doanh cá thể và số liệu thống kê chưa phản ánh đầy đủ đóng góp của lực lượng này vào nền kinh tế.
Tuy nhiên theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê cũng như điều tra của VCCI, quy mô của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam hiện nay chủ yếu là nhỏ và siêu nhỏ so với tiêu chuẩn các nước. Một số khó khăn và thách thức hiện nay đang cản trở sự lớn mạnh của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam như:
Tính phi chính thức cao, năng suất thấp. Nhiều nghiên cứu chỉ ra, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam gặp khó khăn trong việc tăng năng suất thông qua tính hiệu quả về kinh tế theo quy mô, chuyên môn hóa và đổi mới sáng tạo. Hiện Việt Nam có quá ít doanh nghiệp tư nhân trong nước có quy mô vừa và quy mô lớn, đặc biệt trong ngành công nghiệp chế tác, sản xuất.
Doanh nghiệp tư nhân còn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận các nguồn lực vốn, đất đai và nguồn lực kinh doanh khác… Theo điều tra khảo sát của VCCI nhiều năm, thì tiếp cận vốn và đất đai luôn là những khó khăn hàng đầu của các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Các nguồn khác như từ thị trường chứng khoán, các quỹ đầu tư… còn rất hạn chế.
Các khu công nghiệp hiện nay thường ưu tiên và phù hợp với các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nước ngoài. Những diện tích đất sử dụng tối thiểu trong các khu, cụm công nghiệp, khoản tiền sử dụng đất phải nộp trước nhiều năm… là những tiêu chuẩn không phù hợp với doanh nghiệp tư nhân quy mô vừa và nhỏ. Công tác giải phóng mặt bằng ngày càng khó và giá đất đối với nhiều doanh nghiệp cũng cao. Tính ổn định của quy hoạch sử dụng đất và sự phiền hà của thủ tục hành chính liên quan đến đất đai cũng khiến nhiều doanh nghiệp lo ngại…
Trình độ quản trị thấp. So với doanh nghiệp nhiều nước có bề dày kinh nghiệm hàng trăm năm, các doanh nghiệp Việt Nam mới hơn, non trẻ hơn. Nhiều doanh nghiệp đi lên từ quy mô hộ gia đình nên tổ chức kinh doanh và hoạt động quản trị chưa bài bản, dựa nhiều vào sự thuận tiện và kinh nghiệm tích luỹ.
Chính vì thế, nền kinh tế tư nhân rất cần các chính sách tạo môi trường phát triển thuận lợi hơn từ các cơ quan quản lý Nhà nước.
3 đột phá chiến lược của VCCI trong nhiệm kỳ tới: (1) Thúc đẩy xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, chủ động tham gia sâu hơn, tích cực và hiệu quả hơn vào quá trình xây dựng pháp luật, chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh quốc gia cũng như các địa phương. Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước, đồng thời hỗ trợ, phối hợp các hiệp hội doanh nghiệp tham gia quá trình xây dựng chính sách, nhất là các chính sách chuyên ngành. (2) Tiên phong xây dựng văn hóa kinh doanh Việt Nam, hình thành và thúc đẩy thực hiện các quy ước, chuẩn mực chung về đạo đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp. Xây dựng hệ giá trị văn hoá kinh doanh Việt Nam bao gồm các giá trị văn hoá tinh hoa của dân tộc và các giá trị chuẩn mực của thế giới, nâng cao nhận thức về trách nhiệm xã hội, hướng tới mục tiêu phát triển doanh nghiệp bền vững, vì lợi ích con người và cho các thế hệ mai sau. Xây dựng, củng cố niềm tin xã hội đối với doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam. (3) Đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số trong doanh nghiệp, tạo nền tảng để doanh nghiệp nắm bắt các cơ hội mới của cách mạng công nghiệp 4.0, thay đổi mô hình kinh doanh, cơ cấu lại sản phẩm và thị trường, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như cả cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, khai thác, phát huy các tiềm năng kinh tế và lợi thế của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu. |
Ông có thể nói rõ hơn về những chính sách này?
Có thể khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam những năm vừa qua đã có những thay đổi lớn. Về chính sách, lần đầu tiên trong lịch sử có một nghị quyết của Bộ Chính trị, Nghị quyết 09 ngày 9/12/2011 về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Dấu mốc lịch sử quan trọng thứ hai là Nghị quyết 10 của Hội nghị Trung ương 5 ngày 3/6/2017 về kinh tế tư nhân. Nghị quyết này đã quy định rằng “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế” và “Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng góp trong GDP”; “Xoá bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng”. Nghị quyết 10 cũng hướng tới mục tiêu đến năm 2020 có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp; đến năm 2025 có hơn 1,5 triệu doanh nghiệp và đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp…
Trong bối cảnh dịch bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng như hiện nay, Đảng và Nhà nước cần có một chương trình hỗ trợ đủ lớn và kịp thời để vực dậy nền kinh tế, nhanh chóng khôi phục các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp tư nhân đóng vai trò quan trọng. Bối cảnh khó khăn hiện nay là một cơ hội vàng để chúng ta khởi động một chương trình cải cách thể chế kinh tế nhanh hơn, mạnh mẽ hơn để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp.
Tôi cho rằng chương trình cải cách thể chế này sẽ tạo ra động lực mới để phát triển mạnh mẽ cho doanh nghiệp tư nhân và nhanh chóng hiện thực hoá một trong 3 đột phá chiến lược mà Đại hội Đảng XIII đã đề ra.
Tại Đại hội VCCI diễn ra ngày 31/12 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã tới dự và phát biểu chỉ đạo quan trọng. Ông có thể cho biết một số điểm nhấn trong chỉ đạo của Thủ tướng?
Tại Đại hội VCCI diễn ra ngày 31/12, Thủ tướng đánh giá cao quan điểm định hướng hoạt động của VCCI trong giai đoạn tới phải đồng bộ với định hướng phát triển của đất nước. Sứ mệnh của VCCI là liên kết, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp bền vững, văn minh, hội nhập và ngang tầm thế giới, cùng phấn đấu xây dựng Việt Nam đến năm 2045 trở thành quốc gia phát triển, hùng cường, thịnh vượng.
Thủ tướng cũng tán thành 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược mà văn kiện Đại hội của VCCI đã đề ra, đồng thời chỉ đạo VCCI tập trung thực hiện 5 nhiệm vụ lớn.
Một là, không ngừng xây dựng, củng cố VCCI thực sự trở thành tổ chức quốc gia tập hợp và đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân, người sử dụng lao động và các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam.
Hai là, tham gia tích cực, góp phần ngày càng quan trọng vào thúc đẩy cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh.
Ba là, hỗ trợ doanh nghiệp ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả hơn. Thủ tướng đặc biệt đã gợi ý tầm nhìn của VCCI không chỉ là hướng tới Doanh nghiệp vững mạnh – Quốc gia hưng thịnh mà phải rộng hơn, đó là “Doanh nghiệp vững mạnh - Quốc gia hùng cường, thịnh thượng”.
Bốn là, yêu cầu VCCI đẩy mạnh phát triển đội ngũ doanh nhân Việt Nam với tinh thần đoàn kết, dân tộc, tự cường, lưu ý cùng với đó cần “xây dựng văn hoá kinh doanh xứng tầm phát triển của đất nước.
Năm là, dẫn dắt doanh nghiệp hội nhập thành công. Thủ tướng cũng yêu cầu các bộ, ngành và các địa phương tiếp tục phối hợp chặt chẽ, ủng hộ và hỗ trợ VCCI triển khai hiệu quả các hoạt động hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp phát triển, lớn mạnh trong thời gian tới.
Trân trọng cảm ơn ông!
6 nhiệm vụ trọng tâm của VCCI trong nhiệm kỳ 2021-2026: (1) Chủ động, tích cực tham gia xây dựng pháp luật, chính sách, thúc đẩy thuận lợi hóa môi trường kinh doanh. Trong đó chú trọng các giải pháp: Nâng cao chất lượng hoạt động góp ý, xây dựng pháp luật, chính sách theo hướng sát với thực tiễn, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực thi pháp luật; Thúc đẩy thuận lợi hoá môi trường kinh doanh nhằm phát triển nhanh doanh nghiệp, mở rộng thu hút vốn đầu tư FDI, hỗ trợ doanh nghiệp khôi phục và mở rộng sản xuất kinh doanh; Thúc đẩy môi trường truyền thông lành mạnh thúc đẩy doanh nghiệp phát triển, nâng cao tinh thần kinh doanh. (2) Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ phát triển doanh nghiệp. Tập trung vào các giải pháp chính như: Thúc đẩy các sáng kiến hỗ trợ doanh nghiệp phát triển bền vững; Tăng cường hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp do phụ nữ và thanh niên làm chủ; Thúc đẩy phát triển và tăng cường liên kết các doanh nghiệp đầu ngành; Hỗ trợ và thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số; Hỗ trợ hiệu quả hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; Đẩy mạnh hoạt động đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp. (3) Tăng cường hoạt động kết nối, hỗ trợ phát triển Hiệp hội Doanh nghiệp và hội viên. Tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm: Phát triển và kết nối hệ thống các hiệp hội doanh nghiệp, nâng cao năng lực các hiệp hội doanh nghiệp; Hỗ trợ nâng cao năng lực giới sử dụng lao động; Phát triển hội viên và nâng cao chất lượng hỗ trợ hội viên; Tăng cường liên kết vùng và hợp tác với chính quyền địa phương trong hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp. (4) Phát triển đội ngũ doanh nhân, tiên phong thúc đẩy xây dựng hoá kinh doanh Việt Nam. Chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ doanh nhân cả về số lượng và chất lượng; Tiên phong thúc đẩy xây dựng văn hoá kinh doanh Việt Nam, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ doanh nhân có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ, tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội như Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đề ra. Trong văn hóa kinh doanh cần chú trọng xây dựng đạo đức kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân. (5) Tăng cường kết nối và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế. Tập trung vào các giải pháp cụ thể là: Tiếp tục tăng cường kết nối doanh nghiệp Việt Nam với cộng đồng quốc tế; Hỗ trợ doanh nghiệp khai thác tốt các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do, nhất là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mang lại. Đồng thời, tăng cường công tác bảo vệ doanh nghiệp và hỗ trợ thích ứng trong hội nhập. (6) Đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của VCCI. Một số giải pháp trọng tâm gồm: Đổi mới tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả; Đổi mới phương thức cơ chế hoạt động theo hướng chuyên nghiệp; Tăng cường công tác quản lý, phát triển và khai thác hiệu quả các nguồn lực. |