Dự thảo Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi): Cần có một số quy định áp dụng riêng cho ngành đặc thù
Phát biểu khai mạc Toạ đàm, ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng cho biết, trải qua 16 năm đi vào cuộc sống, Luật Giao dịch điện tử đã cùng các luật liên quan tạo hành lang pháp lý cho hoạt động giao dịch điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dân sự, kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, trước bối cảnh công nghệ thay đổi nhanh chóng, sự bùng nổ của chuyển đổi số và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là trong 2 năm gần đây, dưới tác động của đại dịch COVID-19, nhu cầu giao dịch điện tử đã bùng phát mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực, phương thức giao dịch cũng có nhiều thay đổi, với sự phát triển đột phá của các công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, sinh trắc học, chuỗi khối...
Vì vậy, việc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số đã trở thành yêu cầu bắt buộc đối với các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, trong đó chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính ngân hàng luôn tiên phong, dẫn dắt và thúc đẩy chuyển đổi số trong các lĩnh vực khác.
Song thời gian qua, hoạt động của các ngân hàng, trung gian tài chính gặp nhiều khó khăn, thách thức, thậm chí rủi ro pháp lý do thiếu khuôn khổ pháp luật quy định về giao dịch điện tử.
Từ những phân tích trên cho thấy, việc sửa đổi Luật này là rất cần thiết để tạo hành lang pháp lý hoàn thiện để thực hiện chuyển đổi các hoạt động; khắc phục những bất cập, tồn tại, hạn chế của Luật hiện hành, đặc biệt đối với vấn đề bảo đảm giá trị pháp lý của giao dịch điện tử; luật hóa các vấn đề thực tiễn yêu cầu và bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành.
Ông Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng phát biểu khai mạc Toạ đàm |
Theo Chủ tịch VNBA, về cơ bản, các nội dung quy định tại dự thảo Luật đã khắc phục được những bất cập, hạn chế của Luật hiện hành, đặc biệt việc công nhận giao dịch điện tử có giá trị pháp lý giống như giao dịch truyền thống với các điều kiện kèm theo.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong bối cảnh nhu cầu giao dịch điện tử tăng trưởng nhanh chóng hiện nay, giúp các ngành, lĩnh vực trong đó có lĩnh vực ngân hàng có cơ sở pháp lý hoàn thiện để đẩy mạnh các hoạt động giao dịch điện tử, chuyển đổi số thành công.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, dự thảo Luật còn một số nội dung chưa thống nhất, phù hợp với quy định pháp luật và thực tiễn hoạt động hiện nay.
Cụ thể, theo bà Nguyễn Thị Phương, Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng, cần có hướng dẫn chi tiết và đầy đủ về việc sử dụng các chứng từ điện tử đã được ký bằng chữ ký điện tử trong các vụ việc tại Tòa án, do hiện tại việc sử dụng các chứng từ điện tử đã được ký bằng chữ ký điện tử tại Tòa án đang có một số vướng mắc như: Không phải Tòa án nào cũng có đủ trang thiết bị để có thể tiếp nhận và xác thực các tài liệu đã được ký bằng chữ ký điện tử;
Trong một vụ việc sẽ có rất nhiều hồ sơ, giấy tờ trong đó có các hồ sơ được thể hiện bằng văn bản nhưng cũng có những hồ sơ được thể hiện dưới dạng chứng từ điện tử, tuy nhiên thủ tục để xác thực và công nhận các chứng từ điện tử này cho mục đích sử dụng làm căn cứ tại các vụ việc đang không có quy định cụ thể, hiện còn nhiều quan điểm và cách áp dụng khác nhau giữa các Tòa án; về mặt pháp lý thì chữ ký số chỉ là một hình thức trong các loại chữ ký điện tử.
Các bên có thể lựa chọn sử dụng các hình thức chữ ký điện tử khác trong quá trình giao dịch và các tài liệu đã được ký bằng các chữ ký điện tử này vẫn có giá trị pháp lý. Tuy nhiên, hiện tại các Tòa án chỉ mới chấp nhận các chứng từ điện tử được ký bằng các hình thức chữ ký điện tử khác...
Đối với chứng thực chữ ký điện tử nội bộ, bà Phương đề nghị cho phép các NHTM là tổ chức đặc biệt được phép chứng thực chữ ký điện tử nội bộ do việc quản lý chữ ký, nhân sự nội bộ qua hệ thống là rất chặt chẽ, được kiểm soát qua nhiều bộ phận độc lập.
Ngoài ra, dự thảo chưa có quy định về các vi phạm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực giao dịch điện tử. Đề nghị có quy định cụ thể để làm rõ tính chất, mức độ vi phạm và chế tài phù hợp đối với từng mức độ vi phạm nhất định.
Về hệ thống thông tin phục vụ giao dịch điện tử, hiện tại đối với hoạt động của ngân hàng điện tử đã có quy định của NHNN điều chỉnh. Việc quy định ràng buộc điều chỉnh nội dung này đối với ngân hàng sẽ làm tăng gánh nặng cho hệ thống đã được xây dựng và sử dụng ổn định của ngân hàng, cũng như gây ra tình trạng chồng chéo quy định điều chỉnh cho cùng một hệ thống.
Toàn cảnh Toạ đàm |
Đại diện Câu lạc bộ Pháp chế Ngân hàng đề nghị Ban soạn thảo quy định đối với ngành Ngân hàng, hoặc một số ngành đặc thù khác mà đã có quy định riêng về hệ thống của ngành đó thì sẽ áp dụng quy định riêng của chuyên ngành.
Ngoài ra, cần bổ sung quy định về khái niệm “Dữ liệu mở” trong cơ quan nhà nước; quy định cụ thể về giấy phép sử dụng và quyền tương ứng đối với Dữ liệu mở để doanh nghiệp và người dân dễ dàng sử dụng và khai thác…
Trong thực tiễn, doanh nghiệp chưa áp dụng được việc sử dụng chữ ký điện tử của đối tác nước ngoài khi giao dịch với doanh nghiệp Việt Nam. Đề nghị trong quy định của pháp luật về Giao dịch điện tử có ghi nhận “chứng thư điện tử” và “chữ ký số” được gửi từ đối tác nước ngoài sẽ có giá trị pháp lý.
Đại diện BWG cũng nêu một số vướng mắc như, tại Điều 35 có quy định Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thư chữ ký điện tử nước ngoài khi: Chữ ký điện tử hoặc chứng thư chữ ký điện tử đó có độ đảm bảo an toàn tương đương với độ đảm bảo an toàn của chữ ký điện tử và chứng thư chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật hoặc căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các yếu tố có liên quan khác.
Đại diện BWG cho rằng cần làm rõ “quy định pháp luật” ở đây được hiểu là quy định pháp luật Việt Nam hay pháp luật của nước ngoài. Nếu là quy định pháp luật nước ngoài thì cơ quan/tổ chức nào có đủ năng lực để thẩm định độ đảm bảo an toàn.
Nếu là quy định pháp luật Việt Nam thì BWG nhận thấy không phù hợp và khiên cưỡng vì không thể áp tiêu chuẩn của Việt Nam cho chữ ký điện tử phát hành bởi tổ chức nước ngoài. Do đó, đơn vị này đề xuất quy định theo hướng mở để các bên tự lựa chọn tiêu chuẩn đánh giá độ đảm bảo an toàn.
Trao đổi tại Toạ đàm, ông Lê Anh Dũng – Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Thanh toán, NHNN nêu ý kiến về quy định chữ ký điện tử tại điều 33 của Dự thảo. Cụ thể, Dự thảo Luật đề cập đến chữ ký điện tử và chữ ký số.
Tuy nhiên, hiện dự thảo Luật chỉ đang thừa nhận tính pháp lý của chữ ký số mà chưa quy định tính pháp lý của các chữ ký điện tử khác. Thực tiễn hiện nay, nhiều cá nhân chưa có chữ ký số trong khi vẫn thường xuyên phát sinh các nhu cầu thực hiện giao dịch điện tử hàng ngày như mua sắm trên sàn thương mại điện tử, chuyển tiền, thanh toán…
Vì vậy, cần tham khảo kinh nghiệm eSIGN của Mỹ hay eiDAS của EU hiện đang chia chữ ký điện tử thành 3 mức độ đảm bảo để phù hợp với các mức độ, cách thức, giá trị giao dịch khác nhau trên môi trường điện tử.
Do đó, cần cân nhắc nghiên cứu, bổ sung quy định về cấp độ chữ ký điện tử và giá trị pháp lý theo cấp độ chữ ký điện tử tại dự thảo Luật để đảm bảo phù hợp với thực tiễn sử dụng chữ ký điện tử cũng như xác thực giao dịch trên môi trường điện tử; tạo căn cứ để hướng dẫn cụ thể hơn tại các văn bản cấp độ dưới Luật phù hợp với thực tiễn ứng dụng công nghệ cũng như đặc thù từng lĩnh vực, ngành nghề…