Gia nhập thị trường vẫn còn vướng mắc
Thúc đẩy kinh doanh liêm chính khu vực tư | |
Bỏ nhiều điều kiện kinh doanh, doanh nghiệp lợi | |
PCI 2019: Những con số của niềm tin |
Theo kết quả điều tra Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2019, chỉ số gia nhập thị trường của Việt Nam đã liên tục cải thiện trong những năm gần đây. Đặc biệt sau sự ra đời của Luật Đầu tư 2014, thời gian chờ đợi đối với các loại giấy phép đầu tư ban đầu đã giảm đáng kể. Hiện Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) đang lấy ý kiến xây dựng Dự thảo Nghị định quy định về đăng ký DN để cải thiện mạnh mẽ hơn nữa chỉ số gia nhập thị trường. Tuy nhiên để hoàn thiện, đảm bảo trình tự, thủ tục liên quan đến đăng ký kinh doanh thực sự phù hợp với thực tiễn, tạo thuận lợi tối đa, các DN đề xuất cần xem xét một số quy định.
Nhiều DN lúng túng không biết xếp ngành nghề kinh doanh của mình vào nhóm nào |
Ghi nhận ý kiến của nhiều DN cho thấy, một trong những thủ tục gây nhiều lúng túng nhất hiện nay chính là đăng ký ngành, nghề kinh doanh, được quy định tại Điều 7 dự thảo Nghị định. Cụ thể, khi thực hiện thủ tục đăng ký thành lập DN, thông báo bổ sung, thay đổi ngành, nghề kinh doanh thì DN lựa chọn ngành nghề kinh tế cấp bốn và xác định mã ngành nghề trong Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam để ghi ngành, nghề kinh doanh trong Giấy đề nghị đăng ký DN, thông báo thay đổi nội dung đăng ký DN hoặc đề nghị cấp đổi sang Giấy chứng nhận đăng ký DN.
Lãnh đạo một DN công nghệ cho hay, trên thực tế có nhiều loại hình kinh doanh mới phát sinh mà hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký DN chưa có quy định cụ thể. Từ đó đã dẫn đến nhiều trường hợp khi DN đăng ký kinh doanh rất lúng túng vì không biết phải xếp ngành nghề hoạt động của mình vào nhóm nào; hoặc tự xếp ngành không đúng và phải kê khai, làm lại thủ tục.
“Thực ra việc xác định mã ngành nghề nào tại thời điểm đăng ký kinh doanh là ít ý nghĩa đối với DN, bởi chúng tôi chỉ quan tâm xem đây có phải là ngành cấm kinh doanh hay hạn chế kinh doanh hay không”, vị này cho hay.
Đại diện của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng cho rằng, đây là quy định không mới, trên thực tế VCCI đã nhiều lần phản ánh về những bất cập của quy định này nhưng chưa được ghi nhận. Chuyên gia của VCCI cho biết, cơ quan này không kiến nghị bỏ việc ghi mã ngành cấp bốn khi đăng ký thành lập DN, hoặc thay đổi, bổ sung ngành nghề, bởi việc xác định ngành nghề trong thủ tục đăng ký kinh doanh là nhằm phục vụ cho các mục tiêu quản lý nhà nước. Thay vào đó VCCI đề xuất xác định lại chủ thể phải thực hiện việc ghi mã ngành này là cơ quan quản lý nhà nước, chứ không phải DN.
Trên thực tế, các quy định về đăng ký DN được đánh giá cao bởi nhiều nội dung đề cao tính chịu trách nhiệm của các chủ thể thực hiện thủ tục đăng ký DN. Song khi đi sâu vào các quy định cụ thể, thì nguyên tắc này lại bị mờ dần đi do một số quy trình, thủ tục chưa được quy định rõ ràng.
Chẳng hạn theo quy định tại Điều 4 dự thảo Nghị định, DN sẽ phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, trung thực, chính xác của các thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký DN; cơ quan đăng ký kinh doanh không chịu trách nhiệm về những vi phạm pháp luật của DN và người thành lập DN. Quy định này được hiểu, cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ không thẩm định để xác định “tính hợp pháp, trung thực và chính xác của các thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh”.
Nguyên tắc này sẽ góp phần thúc đẩy thủ tục hành chính được thực hiện nhanh chóng. Tuy nhiên, nguyên tắc này lại chưa được thể hiện một cách nhất quán trong một số quy định tại Dự thảo. Điển hình như tại Khoản 3, 4 Điều 68 dự thảo quy định trường hợp thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký thành lập mới, thay đổi nội dung đăng ký DN là không trung thực, không chính xác thì phòng đăng ký kinh doanh thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật, đồng thời có các biện pháp xử lý tương ứng đối với việc thành lập mới, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh. Quy định này chưa minh bạch ở điểm, việc kết luận được các thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký thành lập mới, thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh là “không trung thực, không chính xác” không phải dễ dàng. Đặc biệt khi cơ quan đăng ký kinh doanh không thẩm định hay xác minh về tính chính xác, trung thực các thông tin kê khai trong hồ sơ thì kết luận như thế nào? Hình thức kết luận này và những hệ quả pháp lý sau đó là gì?
Tương tự như vậy, đối với quy định về việc sử dụng con dấu. Khoản 5 Điều 4 Dự thảo quy định DN không bắt buộc phải đóng dấu trong giấy đề nghị đăng ký DN, thông báo thay đổi nội dung đăng ký DN, nghị quyết, quyết định, biên bản họp trong hồ sơ đăng ký DN. Quy định này là một trong những bước tiến tạo thuận lợi về hồ sơ cho DN. Tuy nhiên trong hồ sơ đăng ký DN còn có các tài liệu khác như văn bản ủy quyền thực hiện thủ tục đăng ký DN. Như vậy, nếu đã không bắt buộc đóng dấu trong các loại tài liệu thì cần liệt kê đầy đủ các giấy tờ cần thiết phải có khi đăng ký DN; hoặc sửa đổi quy định trên theo hướng DN không bắt buộc phải đóng dấu trên tất cả các tài liệu trong hồ sơ đăng ký DN.
Cũng theo ghi nhận từ các DN, nhà đầu tư, một số thủ tục hành chính quy định tại dự thảo Nghị định chưa đảm bảo tính minh bạch, khi áp dụng sẽ gây khó khăn trên thực tế. Cụ thể là các quy định liên quan đến trách nhiệm báo cáo của DN trong các trường hợp: tên DN xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tạm ngừng kinh doanh, đình chỉ hoạt động, chấm dứt kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký thành lập mới là không trung thực, không chính xác…
Hoặc một quy định khác là hiện nay không yêu cầu bắt buộc DN phải đăng ký qua mạng thông tin điện tử, song theo phản ánh của một số DN, cơ quan đăng ký kinh doanh ở địa phương lại bắt buộc phải nộp hồ sơ đăng ký qua mạng điện tử, sau đó mới nộp hồ sơ giấy trực tiếp. Để đảm bảo cách hiểu thống nhất, cần bổ sung quy định về các phương thức nộp hồ sơ đăng ký DN theo hướng có thể chọn 1 trong 3 cách: trực tiếp, thông qua mạng thông tin điện tử, qua đường bưu chính; hay phải thực hiện cả ba.