Lỗ hổng trong cứu trợ doanh nghiệp của Mỹ
Hồi tháng 3 năm nay, chính quyền của Tổng thống Donald Trump đã triển khai chương trình bảo vệ tiền lương thuộc gói cứu trợ đại dịch của Chính phủ Mỹ (PPP) với tổng trị giá 660 tỷ USD giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Mỹ sống sót qua đại dịch Covid-19 cũng như duy trì việc làm cho 50 triệu người lao động.
Theo quy định của chương trình PPP, đối tượng doanh nghiệp nhỏ hướng đến bao gồm: Các doanh nghiệp có quy mô ít hơn 500 nhân viên; Hộ kinh doanh cá thể; Những nhân viên làm việc hợp đồng thời vụ; Những người làm nghề tự do, tài xế Uber hay Lyff và ngoại lệ bao gồm các doanh nghiệp lớn trong ngành dịch vụ lưu trú và cung cấp thực phẩm.
Một số công ty Trung Quốc nhận được sự hỗ trợ từ chương trình PPP |
Giá trị khoản vay sẽ gấp 2,5 lần số tiền mà chủ doanh nghiệp chi trả lương mỗi tháng, tối đa là 10 triệu USD. Trong đó, tối thiểu 75% số tiền vay mượn phải dùng để trả cho tiền lương nhân viên (bao gồm thưởng, tiền bảo hiểm sức khỏe...). Tối đa 25% còn lại được dùng để trả tiền thuê mặt bằng, điện, nước… Nếu đối tượng vay dành hơn 25% tiền cho các mục đích trên thì sẽ chịu lãi suất 1% cho khoản chênh lệch. Ngoài ra, không có yêu cầu cụ thể nào khác dành cho những đối tượng được vay. Việc duy nhất họ cần xác nhận trong tờ khai là dịch Covid-19 đang ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của họ. Đơn đăng ký sẽ được chấp nhận từ 3/4 - 30/6.
Tuy nhiên, việc thực hiện chương trình này đang tồn tại một số lỗ hổng. Trước hết, nhiều doanh nghiệp lớn thuộc diện chi trả của nó hoàn toàn có thể tiếp cận các hình thức tín dụng khác để nhận khoản vay hỗ trợ. Việc này đã thúc giục Bộ Tài chính Mỹ đưa ra cảnh báo rằng, các doanh nghiệp lớn có thể sẽ bị trừng phạt nếu không thể chứng minh khoản vay đó là thiết yếu.
Lỗ hổng thứ hai xoay quanh nghi vấn các ngân hàng cố tình gây xáo trộn trong việc xét duyệt các hồ sơ xin vay tiền từ các chủ doanh nghiệp nhỏ. 4 ngân hàng lớn nhất Mỹ là JPMorgan Chase, Bank of America, WellsFargo và US Bank đã phải nhận đơn kiện từ một nhóm các doanh nghiệp nhỏ tại bang California với cáo buộc có hành vi gian dối khi xét duyệt đơn cho vay. Họ cho rằng ngân hàng chỉ chăm chăm lo xử lý các khoản vay lớn, thay vì làm đúng theo tiêu chí của chính phủ là ưu tiên các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ngoài ra, một lỗ hổng nghiêm trọng khác đặt ra khi áp dụng PPP đó là theo quy định giải cứu kinh tế của chương trình này, các công ty nước ngoài hoạt động tại Mỹ vẫn thuộc nhóm đối tượng nhận được khoản cứu trợ.
Với quy định đó, một vấn đề đặt ra đó là hàng trăm triệu USD tiền thuế của người dân Mỹ đang chảy về túi các công ty nước ngoài, trong đó chủ yếu là các doanh nghiệp do Trung Quốc đầu tư và hoạt động. Theo kết quả nghiên cứu dữ liệu về các khoản nợ do Bộ Tư pháp Mỹ công bố vào hồi tháng 6 vừa qua, công ty tư vấn chiến lược Horizon Advisory nhận định có khoảng từ 192- 491 triệu USD đã được chuyển vào 125 công ty do Trung Quốc sở hữu hoặc đầu tư đang hoạt động trên đất Mỹ. Trong số này, có ít nhất 32 công ty Trung Quốc đã nhận được các khoản vay hơn 1 triệu USD.
Trong số các công ty Trung Quốc nhận được sự hỗ trợ từ chương trình PPP bao gồm nhiều công ty thuộc các ngành công nghiệp thiết yếu như hàng không vũ trụ, dược phẩm và sản xuất chất bán dẫn. Đây là những lĩnh vực mà Trung Quốc ưu tiên phát triển để hiện thực hóa tham vọng thống trị toàn cầu, thay thế các đối thủ ở Mỹ và các nước khác, hiện đang vấp phải sự phản đối gay gắt từ chính quyền Tổng thống Donald Trump.
Các công ty nhận được khoản vay bao gồm các công ty hỗ trợ chương trình phát triển quân sự Bắc Kinh, các doanh nghiệp được Mỹ xác định là mối đe dọa an ninh quốc gia và các cơ quan truyền thông do chính quyền Trung Quốc kiểm soát. Hai trong số các công ty nước ngoài nhận được khoản vay lớn từ chương trình PPP phải kể đến Tập đoàn sản xuất động cơ máy bay Continental Aerospace Technologies với 10 triệu USD và Công ty Aviage Systems với 350 nghìn USD. Cả hai công ty này đều thuộc sở hữu của Tập đoàn Hàng không Công nghiệp Trung Quốc (AVIC). Ngoài ra, một công ty khác cũng nhận được các khoản vay PPP trị giá từ 5-10 triệu USD là Dendreon Cosmetics. Đây là công ty công nghệ sinh học có trụ sở tại bang California nhưng thuộc sở hữu của Nanjing Xinbai, một công ty có vốn đầu tư của nhà nước Trung Quốc.
Với lỗ hổng như vậy, hai chuyên gia Emily de La Bruyere và Nathan Picarsic, đồng sáng lập Công ty Horizon Advisory chia sẻ nếu không có chính sách phù hợp, tiền thuế của dân Mỹ dành cho cứu trợ, phục hồi và tăng trưởng kinh tế Mỹ có nguy cơ rơi vào túi các đối thủ nước ngoài, cụ thể là Trung Quốc.
Hiện tại, Nghị viện Mỹ và chính quyền Tổng thống Trump đang thảo luận gói kích thích kinh tế thứ 2, có thể bao gồm nhiều nguồn tài trợ hơn cho chương trình PPP. Một nghị sĩ đảng Cộng hòa mới đây đã đề xuất dự luật quy định các gói kích thích kinh tế sẽ loại bỏ các công ty có liên kết với chính quyền Trung Quốc khỏi các chương trình cho vay này. Tuy nhiên, hiện chưa rõ gói cứu trợ sắp tới liệu có bao hàm dự luật này hay không.