Mặt trái của "liều thuốc" bảo hộ mậu dịch
Hiệu ứng lan tỏa
Năm 2009, khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lên tới đỉnh điểm, Tổng thống Brazil, Lula da Silva đã có câu nói rất đáng chú ý tại Diễn đàn Kinh tế Mỹ Latinh: "Chủ nghĩa bảo hộ chẳng khác nào một thứ ma túy, có thể gây hưng phấn tức thì nhưng sau đó sẽ đẩy nạn nhân vào trạng thái trầm cảm kéo dài". Theo báo cáo của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), xu hướng bảo hộ mậu dịch tại hầu hết các nước đang gia tăng, đi ngược lại với những cam kết do các nền kinh tế công nghiệp hoá hàng đầu thế giới đưa ra. Số liệu thống kê mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB) đã chỉ ra rằng có tới 1.593 biện pháp bảo hộ mậu dịch đã được áp dụng trên thế giới từ tháng 11/2008 đến tháng 11/2011, trong đó có 1.187 biện pháp phân biệt đối xử đối với các nhà cung cấp nước ngoài. Danh sách các nước áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch trên thế giới rất dài và Argentina hiện đang đứng đầu với 182 biện pháp, tiếp đến là Nga (172), Ấn Độ (101) và Trung Quốc (94). Mỹ và Liên minh châu Âu (EU) cũng nằm trong danh sách trên tuy ở mức độ có thấp hơn.
Bảo họ mậu dịch cản trở thương mại toàn cầu. (Ảnh: St)
Đối mặt với khủng hoảng tài chính và dòng sản phẩm giá rẻ từ bên ngoài, chính phủ các quốc gia Nam Mỹ ngày càng không che giấu ý đồ ngăn chặn hàng nhập khẩu. Ví dụ điển hình là việc các nước thuộc Khối thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) đã quyết định tăng thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu tại cuộc họp cuối năm 2011. Tháng 2/2012 vừa rồi, Chính phủ Argentina quyết định hạn chế hàng nhập khẩu từ Liên hiệp Anh, chỉ vài tháng sau quyết định tăng thuế đối với một số sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc. Trong khi đó, Pháp và EU cũng không thiếu kinh nghiệm trong việc bảo hộ thị trường của mình.
Tại châu Á, Ấn Độ đã quyết định ngừng mở cửa lĩnh vực phân phối, ước tính giá trị khoảng 450 tỷ USD đối với các công ty nước ngoài như Carrefour, al-Mart và Tesco. Trong khi đó, Hàn Quốc tăng thuế hải quan từ 1% tới 3% đối với xăng dầu nhập khẩu và Indonesia đã giảm nhập cảng đối với các sản phẩm điện tử với cái cớ chống buôn lậu. Trung Quốc cũng hạn chế các nước tiếp cận thị trường của mình và bị chỉ trích là đã dành cho các nhà xuất khẩu những khoản trợ cấp không công bằng.
Nguy cơ cảnh báo
Trước mối đe dọa của "bóng ma" chủ nghĩa bảo hộ, Liên Hợp quốc và WTO đã kêu gọi thế giới đấu tranh chống lại những rào cản đang gia tăng, cản trở sự phát triển của thương mại toàn cầu. Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy cảnh báo rằng, hoạt động thương mại thế giới "có nguy cơ bị đình trệ nếu các biện pháp bảo hộ quy mô lớn được áp dụng", gây thiệt hại tới 800 tỷ USD cho các hoạt động thương mại toàn cầu. WB cũng ước tính, chỉ riêng việc xóa bỏ các rào cản thương mại đối với hàng hóa, mỗi năm các quốc gia đang phát triển cũng có thể tăng thêm thu nhập 142 tỷ USD. Con số đó có thể sẽ cao hơn 80 tỷ USD viện trợ kinh tế của các nước công nghiệp phát triển năm 2005 và cao hơn tổng các khoản nợ dự kiến được giảm cho các nước đang phát triển là 42,5 tỷ USD; qua đó sẽ có thêm hàng chục triệu người nữa thoát nghèo.
Theo WTO, thương mại và tự do hóa thương mại thậm chí có thể còn là những công cụ hữu hiệu hơn để xóa đói, giảm nghèo và giúp cho các quốc gia có nguồn lực kinh tế để đáp ứng các nhu cầu cấp thiết nhất của họ. Tổng giám đốc WTO Pascal Lamy nhấn mạnh rằng chính sách tăng trưởng dựa vào thương mại đã đưa Hàn Quốc từ một nước có thu nhập bình quân đầu người cách đây 50 năm thấp hơn Senegal hay Bolivia nay đã trở thành nhà đóng tàu lớn nhất thế giới và nhà sản xuất xe hơi lớn thứ 5 thế giới.
Các quốc gia phát triển và đang phát triển đang phải đứng trước những lựa chọn quan trọng khi xác định hướng đi cho chính sách thương mại của họ, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng như hiện nay. Về lý thuyết, việc áp đặt các biện pháp bảo hộ mậu dịch có thể đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước, đảm bảo được mục tiêu xã hội cho riêng quốc gia sử dụng các hàng rào kỹ thuật này, bao gồm việc đảm bảo được công ăn việc làm cho một số nhóm người lao động. Tuy nhiên, mặt trái của nó là làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ mà không cần đưa ra các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Trong khi đó, cả lý thuyết và thực tiễn đều chỉ ra rằng tiến trình toàn cầu hóa và mở cửa thương mại đã, đang và sẽ là nền tảng cho tăng trưởng kinh tế, ổn định việc làm và cải thiện cuộc sống cho hàng triệu người trên toàn thế giới.
Minh Trang