Mênh mang… chùa Hoằng Phúc
Nằm phía hữu ngạn sông Kiến Giang, Chùa Hoằng Phúc cách trung tâm huyện Lệ Thủy, Quảng Bình 4km về phía Nam, Hoằng Phúc là một trong những ngôi chùa có lịch sử lâu đời ở miền Trung… Khởi thủy, chùa có tên Am Tri Kiến, sau đổi thành chùa Kính Thiên, tục danh chùa Trạm, hay chùa Quan. Từ điển Di tích Văn hóa Việt Nam, khi viết về chùa Hoằng Phúc đã dẫn lời mô tả vẻ đẹp của chùa, “giữa nơi nước biếc vờn quanh, non xanh bao bọc, nổi lên một ngôi sơn tự, nhà phương trượng và các trai phòng san sát...”.
Ảnh minh họa |
Theo các bậc cao niên trong làng Mỹ Thuỷ, chùa Hoằng Phúc được hình thành cùng với quá trình lập đất của người Việt cổ tại địa danh Tri Kiến, nơi có dòng sông Kiến chảy qua như dải lụa. Bậc tiền nhân đặt tên cho chùa là Tri Kiến, chắc hẳn muốn Chân tâm và Trí tuệ của Đức Phật không chỉ hội tụ trên mảnh đất này, mà dồi dào như dòng Kiến giang tắm mát cho nhân gian. Có lẽ vì vậy, mà chùa Hoằng Phúc trở thành nơi dừng chân của nhiều bậc chân nhân, vua chúa như, Phật hoàng Trần Nhân Tông; Chúa tiên Nguyễn Hoàng; Chúa Nguyễn Phúc Chu, Vua Minh Mạng…
Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông sau khi xuất gia từ chùa Yên Tử, trên đường viễn du Chiêm Thành đã ghé thăm chùa. Năm 1609, Quận công Nguyễn Hoàng cho xây dựng lại chùa trên nền cũ và đặt tên Kính Thiên Tự. Năm 1716, chúa Nguyễn Phúc Chu cho xây dựng, trùng tu, đồng thời ban một biển đề đại tự “Vô song phúc địa” (đất phúc khôn sánh). Tuy nhiên, trong cuộc phân tranh Trịnh-Nguyễn kéo dài hàng trăm năm, ngôi chùa rơi vào cảnh hoang tàn đổ nát do bị lãng quên. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), trong chuyến ngự giá Bắc tuần, vua có ghé thăm chùa Kính Thiên và cho đổi tên chùa thành “Hoằng Phúc Tự”. Đến năm, Thiệu Trị thứ 2 (1842), vua ngự giá Bắc tuần và cũng đến thăm chùa Hoằng Phúc và cấp cho 300 lạng bạc để trùng tu lại chùa.
Trong lịch sử trầm mặc của mình, chùa Hoằng Phúc không chỉ là nơi thờ Phật, mà còn gắn với nhiều sự kiện lịch sử của Quảng Bình. Chùa Hoằng Phúc là nơi hoạt động của chi bộ Đảng đầu tiên trên đất Quảng Bình (1931)… Chùa còn là nơi huấn luyện dân quân tự vệ, hậu cứ của chiến trường B, nơi tập kết hàng hóa, quân lương, điểm dừng chân trước khi vào chiến trường miền Nam… Trải qua thăng trầm thời gian, chiến tranh và thiên tai đã tàn phá phần lớn ngôi chùa, chỉ còn lại “tả quảng độ môn” và một số bảo vật.
Cảm nhận được những giá trị lịch sử cũng như giá trị văn hoá Phật giáo của ngôi chùa, năm 2014, chùa Hoằng Phúc được phục dựng theo đúng không gian, bố cục và kiến trúc chùa Việt truyền thống, gồm Tam quan ngoại, Tam quan nội, Tháp phật, Tam bảo chùa, am hóa vàng và các công trình phụ trợ khác... Việc tôn tạo chùa được thực hiện một cách cẩn trọng theo phong cách kiến trúc thời Trần, kết hợp hài hòa việc phục dựng với bảo tồn không gian cổ kính. Công trình đã duy trì được khí chất uy nghiêm, thanh tao của ngôi chùa cổ vừa tiếp nối chặt chẽ với nguồn mạch phật giáo của vùng đất. Đặc biệt, trong chùa hiện còn giữ lại giếng cổ, còn gọi là giếng Phật, cổng lớn “Tả quảng độ môn” và bảo quản lưu giữ nhiều hiện vật quý như, tòa Cửu Long, chuông lớn Đại Hồng Linh Chung, các lư đèn có niên đại gần 300 năm. Trong chùa cũng đặt Đại hồng Chung nặng 715kg, tượng trưng cho 715 năm ngày Phật hoàng Trần Nhân Tông ngự giá...
Trước đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam và tỉnh Quảng Bình cũng đã tổ chức cung nghinh xá lợi Phật tổ từ Giáo hội Phật giáo Myanmar về chùa Hoằng Phúc. Xá lợi được Giáo hội Phật giáo Myanmar trao tặng là một viên xá lợi xương của Phật tổ Thích Ca Mâu Ni được rước từ chùa Shwendagon (Chùa Vàng), TP. Yangon-ngôi chùa lớn và thiêng liêng nhất đất nước Myanmar…
Việc phục dựng, tôn tạo di tích lịch sử chùa Hoằng Phúc có ý nghĩa rất lớn, là nơi tôn nghiêm để phụng thờ đức Phật, điểm đến của Phật tử gần xa. Bên cạnh, cùng với nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, khu lăng mộ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, khu du lịch nghỉ dưỡng sinh thái nước khoáng Bang, miếu Thần Hoàng, chùa An Xá, chùa Hoằng Phúc sẽ là điểm đến hấp dẫn khách du lịch tâm linh, hứa hẹn sẽ đem đến cho du lịch Quảng Bình những cơ hội để phát triển...