Ngân hàng trung ương Nhật Bản có sớm thay đổi chính sách nới lỏng?

06:58 | 28/12/2022

Mặc dù Thống đốc NHTW Nhật Bản (Bank of Japan - BoJ) Haruhiko Kuroda hôm 26/12 đã bác bỏ khả năng sớm rút lại chính sách tiền tệ siêu nới lỏng hiện nay, song thị trường ngày càng kỳ vọng sự thay đổi lập trường chính sách của BoJ sẽ đến sau khi nhiệm kỳ của ông Kuroda kết thúc.

Kiên định với mục tiêu nới lỏng…

BoJ đã gây bất ngờ cho thị trường khi quyết định tăng gấp đôi biên độ dao động của lợi suất trái phiếu Chính phủ Nhật Bản kỳ hạn 10 năm từ 2,5% lên 5% (xung quanh mức 0%) sau khi kết thúc cuộc họp chính sách hôm 20/12.

Bất ngờ là bởi trước đó giới chuyên gia dự báo BoJ sẽ không thực hiện thay đổi nào đối với YCC cho đến khi Thống đốc BoJ Haruhiko Kuroda mãn nhiệm vào tháng Tư. Trong khi động thái này cũng đồng nghĩa với việc cho phép lợi suất dài hạn tăng cao hơn - điều mà nhiều người xem là bước đi đầu tiên cho việc rút lại chính sách tiền tệ siêu nới lỏng hiện tại.

ngan hang trung uong nhat ban co som thay doi chinh sach noi long
NHTW Nhật Bản vừa nới biên độ biến động của lợi suất trái phiếu 10 năm

Tuy nhiên phát biểu tại buổi họp báo sau cuộc họp chính sách tháng 12, Thống đốc BoJ Haruhiko Kuroda khẳng định, động thái trên “không phải là tăng lãi suất”. Theo ông, việc giữ cho lợi suất trái phiếu 10 năm không vượt quá giới hạn 0,25% đã gây ra một số biến dạng về hình dạng của đường cong lợi suất. Do đó, BoJ đã nới rộng biên độ để điều chỉnh những biến dạng như vậy và tăng cường các chức năng của thị trường.

“Chúng tôi đang đặt mục tiêu đạt được mục tiêu lạm phát một cách ổn định và bền vững đi kèm với việc tăng lương. Điều đó sẽ mất thêm thời gian. Còn quá sớm để tranh luận về các chi tiết cụ thể về việc thay đổi khuôn khổ chính sách tiền tệ hoặc thoát khỏi chính sách nới lỏng. Khi mục tiêu của chúng tôi đạt được trước mắt, hội đồng chính sách của BoJ sẽ tổ chức các cuộc thảo luận về chiến lược rút lui (chính sách kích thích tiền tệ) và cung cấp thông tin cho thị trường”.

Trong bài phát biểu trước sảnh kinh doanh Keidanren hôm 26/12, ông Kuroda một lần nữa nhắc lại, quyết định trên là nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách cực kỳ nới lỏng, chứ không phải là bước đầu tiên để rút lại chương trình kích thích tiền tệ. "Đây chắc chắn không phải là một bước để rút lui. Ngân hàng sẽ hướng tới mục tiêu đạt được mục tiêu giá một cách bền vững và ổn định, đi kèm với tăng lương, bằng cách tiếp tục nới lỏng tiền tệ dưới sự kiểm soát của đường cong lợi suất", ông Kuroda cho biết.

Kỳ vọng sớm thay đổi

Tuy nhiên phát biểu của ông Kuroda vẫn không ngăn được kỳ vọng của các nhà đầu tư là BoJ sẽ loại bỏ dần việc kiểm soát lợi suất khi nhiệm kỳ của ông Kuroda kết thúc vào tháng 4 năm sau.

Kỳ vọng trên ngày càng lớn khi mà trong phát biểu hôm 26/12, Thủ tướng Fumio Kishida cho biết, quyết định về việc có nên sửa đổi kế hoạch chi tiết của Nhật Bản nhằm đánh bại giảm phát hay không sẽ được đưa ra sau khi một thống đốc mới của BoJ được bổ nhiệm. “Đó là điều sẽ xảy ra sau khi thống đốc mới của BoJ được quyết định”, Thủ tướng Kishida nói trong một cuộc hội thảo, đề cập đến những thay đổi có thể xảy ra mà chính phủ có thể tìm kiếm trong tuyên bố chung với BoJ, trong đó có cam kết NHTW sẽ đạt mục tiêu lạm phát 2% trong thời gian sớm nhất.

Chưa kể với mục tiêu hiện tại của BoJ là “đạt được mục tiêu giá một cách bền vững và ổn định, đi kèm với tăng lương”, bản thân ông Kuroda cũng thừa nhận tăng trưởng tiền lương có thể sẽ tăng dần do tình trạng thiếu lao động ngày càng gia tăng và những thay đổi cơ cấu trong thị trường việc làm của Nhật Bản, dẫn đến mức lương cao hơn cho người lao động tạm thời và tăng số lượng người lao động lâu dài.

“Các điều kiện thị trường lao động ở Nhật Bản được dự đoán sẽ thắt chặt hơn nữa và hành vi ấn định giá và tiền lương của các công ty cũng có thể sẽ thay đổi”, ông cho biết và nhấn thêm: “Theo nghĩa này, Nhật Bản đang tiến gần đến một thời điểm quan trọng trong việc thoát ra khỏi thời kỳ lạm phát thấp và tăng trưởng thấp kéo dài”.

Hiện Bộ vẫn kiên định với mục tiêu kiểm soát YCC, duy trì lợi suất ngắn hạn ở mức -0,1% và khoảng 0% đối với lợi suất trái phiếu 10 năm. Tuy nhiên việc BoJ không ngừng mua trái phiếu để bảo vệ mục tiêu này đã vấp phải không ít sự phản ứng khi đã bóp méo giá cả thị trường và khiến đồng yên giảm giá, đẩy chi phí nhập khẩu nguyên liệu thô vốn đã đắt đỏ lên cao.

Reuters dẫn lời các nguồn tin cho biết, chính quyền của Thủ tướng Kishida sẽ xem xét sửa đổi tuyên bố chung với BoJ vào năm tới, tập trung vào các bước để đánh bại giảm phát - một mục tiêu đã trở nên không đồng bộ với sự gia tăng lạm phát gần đây và đã ngăn cản BoJ điều chỉnh chính sách tiền tệ linh hoạt hơn. Các nhà phân tích nói rằng bất kỳ sửa đổi nào như vậy sẽ làm tăng cơ hội điều chỉnh chính sách lãi suất cực thấp của BoJ.

Hoàng Nguyên

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.390 23.760 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.440 23.740 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.385 23.745 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.390 23.750 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.360 23.740 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.900 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.400 23.785 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.413 23.758 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.450 23.780 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.750
67.470
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.750
67.450
Vàng SJC 5c
66.750
67.470
Vàng nhẫn 9999
54.800
55.800
Vàng nữ trang 9999
54.600
55.400