Nghịch lý lạm phát cơ bản toàn cầu
Từ đó, NHTW ở hầu hết các nước trên khắp thế giới đang rất lo lắng về tình trạng thiếu hụt nhận thức đúng đắn trước những áp lực của lạm phát trong nước. Điều này được cho là sẽ gây ảnh hưởng lên những dự báo về chính sách tiền tệ trong tương lai. Mặc dù thực tế, mức lạm phát hiện nay không phải là thấp ở tất cả các quốc gia, thậm chí tại một số quốc gia nó còn khá cao.
NHTW ở hầu hết các nước trên thế giới đang rất lo lắng về tình trạng thiếu hụt nhận thức đúng đắn trước những áp lực của lạm phát trong nước |
Trên thực tế, lạm phát cơ bản toàn cầu, một trong những thước đo khá tốt để đánh giá áp lực lạm phát lên mỗi nước, tháng 12 vừa qua đạt 2,4%. Đây là một mức lạm phát cao kể từ năm 2000, chỉ thấp hơn mức đỉnh vào tháng 7-9/2008, ở mức 2,5%, theo số liệu tính toán của JPMorgan.
Đầu tuần này, Cục Thống kê Lao động của Mỹ cho biết, lạm phát cơ bản của Mỹ đã tăng lên 2,1% trong tháng 12, mức cao nhất kể từ tháng 7/2012. Như vậy, chỉ số này đã bất chấp cú tăng đột ngột của USD lên tới 24,4%, thể hiện sức mạnh của đồng bạc xanh so với rổ tiền tệ thế giới kể từ tháng 6/2014.
Nhưng mặc dù lạm phát cơ bản tại Mỹ đã tăng khá cao, ông David Hensley, nhà phân tích kinh tế của JPMorgan nhận định, những áp lực của lạm phát cơ bản trong các nền kinh tế phát triển là “ở mức từ thấp đến trung bình”.
Thay vào đó, mức lạm phát cơ bản toàn cầu tăng cao bất thường đang được dẫn dắt bởi xu hướng trên các thị trường mới nổi. Ở các nước như Brazil, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Phi, áp lực lên đồng tiền nội tệ đang đẩy lạm phát tăng cao, khiến các đồng tiền bị “trượt giá” và làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu.
Trong khi đó, quan trọng là điều này không thể giải thích được cho hiện tượng lạm phát cơ bản toàn cầu tăng cao bất thường. Bởi thị trường ngoại hối đáng lẽ phải là một “trò chơi có tổng bằng không”, và khi đồng nội tệ suy yếu ở một số quốc gia (kéo theo xu hướng lạm phát cao hơn) phải được cân bằng bởi sức mạnh đồng tiền ở những quốc gia khác (kéo theo khả năng lạm phát thấp hơn).
Ông Hensley cũng chỉ ra tác động của việc tăng thuế “có liên quan đến sự căng thẳng của nền kinh tế và có ảnh hưởng đối với lạm phát, nhưng chỉ là tạm thời”.
Theo dự báo của JPMorgan, mức lạm phát cơ bản toàn cầu sẽ không hạ xuống thấp trong những tháng tới, mà sẽ đạt 2,3% vào cuối năm và mức này vẫn sẽ là “gần đạt đến mức cao nhất trong phạm vi của nó trong suốt 15 năm qua”.
Tuy nhiên, Mỹ vẫn đang hy vọng CPI sẽ tăng mạnh vào nửa cuối năm 2016, “miễn là giá dầu không giảm thêm 40% và áp lực giảm giá này nên mờ dần một cách nhanh chóng”.
Ngoài ra, JPMorgan cũng dự báo lạm phát toàn cầu sẽ xuống dưới 1,5% trong tháng 6 và đạt mức 2,6% vào tháng 12/2016. Các nhà phân tích tại RBC Capital cũng đang mong đợi một mức lạm phát cao hơn và những áp lực lên giá cả ở Mỹ sẽ đủ mạnh để thúc đẩy tăng lãi suất trong năm nay.
“Phần lớn các nhà nhập khẩu hàng hóa có thể trải nghiệm một đợt lạm phát tăng đáng kể, trong khoảng từ 100 - 200 điểm cơ bản”, ông Daniel Tenengauzer, người đứng đầu của bộ phận chiến lược thị trường ngoại hối toàn cầu và mới nổi tại RBC Capital nhận định.
Dựa trên những phân tích về xu hướng lạm phát trong quá khứ, RBC Capital dự báo rằng, trong 12 tháng tới, lạm phát sẽ tăng từ 1,7% lên đến 2,8% ở Trung Quốc, từ 5,6% lên 7,3% ở Ấn Độ, từ 2,1% đến 3,7% tại Mexico, và từ 0,9% đến 2,9% tại Hungary.
Các quốc gia hiện đang bị giảm phát ở mức giữa 0,7 - 0,9% như Israel, Ba Lan và Thái Lan thay vào đó sẽ có mức lạm phát là 1,7%, 2,2% và 2,3% vào tháng 12/2016, RBC Capital dự đoán.
Tuy nhiên, RBC cũng không dự kiến trước được sự giảm xuống ở chỉ số lạm phát trên một số ít thị trường mới nổi lớn như Brazil và Nga, nơi mà lạm phát hiện đang ở mức hai con số; hay Thổ Nhĩ Kỳ, quốc gia đang có mức lạm phát là 8,8%...