Tăng cạnh tranh cho cà phê Việt
Đầu tư 170 tỷ đồng phát triển cà phê Việt Nam chất lượng cao | |
Cà phê nội lấy lại phong độ |
Nếu năm 1975, diện tích cà phê cả nước chỉ có 13 nghìn ha, đến năm 2016, đã đạt 645 nghìn ha (tăng 50 lần so với năm 1975), góp phần quan trọng tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê trong những năm qua. Trước 1986, năng suất cà phê Việt Nam thấp hơn năng suất cà phê thế giới. Đến năm 2016, năng suất cà phê Việt Nam đạt 24,5 tạ/ha, cao gấp 3 lần năng suất trung bình cà phê thế giới. Đây là yếu tố quan trọng tăng khả năng cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam.
Trên 90% sản lượng cà phê của Việt Nam vẫn xuất khẩu thô |
Hiện nay, sản phẩm cà phê Việt Nam xuất khẩu đến 80 quốc gia trên thế giới, chiếm 14% thị phần cà phê nhân xuất khẩu thế giới, đứng thứ 2 sau Brazil. Các thị trường yêu cầu chất lượng cao như Đức, Hoa Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Bỉ và Nga hiện đang chiếm tới 56% sản lượng xuất khẩu của Việt Nam.
Để có được bước phát triển trên, ngành cà phê đã triển khai đồng bộ các giải pháp như chọn tạo giống mới, tái canh cà phê, áp dụng tưới nước tiết kiệm, trồng xen, tổ chức chứng nhận chất lượng, hợp tác công tư, tổ chức hợp tác xã, liên kết sản xuất theo chuỗi, hiện đại hóa khâu chế biến, xây dựng thương hiệu và xúc tiến thương mại. Ở nước ta hiện nay, chế biến trong nước chỉ đạt từ 10-11% tổng sản lượng sản xuất (sản xuất trong nước gần 1,5 triệu tấn/năm), tốc độ tăng trưởng chỉ hơn 1%/năm.
Theo đánh giá của Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam, qua quá trình phát triển, ngành cà phê Việt Nam đã chứng tỏ được vị thế trên trường quốc tế về sự tăng trưởng diện tích, năng suất và sản lượng xuất khẩu cà phê nhân.
Theo các phân tích và đánh giá, cà phê Việt Nam hiện còn nhiều dư địa phát triển, hướng đến kim ngạch xuất khẩu 5 - 6 tỷ USD vào năm 2030. Khuyến khích các nhà đầu tư trong nước đầu tư chế biến sâu sản phẩm cà phê, chất lượng cao, có thương hiệu và giá trị gia tăng thực chất là nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đối với ngành hàng có ưu thế và lợi thế phát triển.
Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư lớn (suất đầu tư cà phê rang xay khoảng 15 – 17 tỷ đồng/ trung bình 1.000 tấn công suất/năm; đối với cà phê hòa tan là 150 tỷ đồng/2.000 tấn công suất/năm), các DN Việt Nam rất khó cạnh tranh trong đầu tư dài hạn với các DN nước ngoài.
Chính vì vậy, Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam kiến nghị Chính phủ cần coi đầu tư tạo thương hiệu quốc gia như mũi nhọn đột phá về kết cấu hạ tầng công nghệ của nền kinh tế, dành một phần từ nguồn vốn ODA để ưu tiên tái canh cà phê, đồng thời hỗ trợ DN trong nước đầu tư dài hạn các dự án chế biến sản phẩm GTGT (hòa tan và rang xay) với lãi suất phù hợp. Rà soát lại các chính sách, nhằm thu hút tốt hơn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp nói chung và chế biến cà phê nói riêng, tập trung thu hút vốn và công nghệ hiện đại vào lĩnh vực chế biến sâu sản phẩm...
Bên cạnh đó, để nâng cao giá trị hạt cà phê Việt Nam cần tạo ra sự chuyển biến về chất giữa người trồng và cộng đồng doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Nhà nước cần hỗ trợ mạnh mẽ hơn đến sự phát triển bền vững của ngành hàng thông qua các biện pháp tổ chức sản xuất, khuyến nông, khoa học công nghệ, tài chính...
Xây dựng các chứng chỉ, phấn đấu xuất khẩu cà phê không tạp chất vì hiện nay, mỗi tấn cà phê xuất khẩu không đạt chuẩn hợp đồng sàn ICE UK bị trừ 30 USD vừa lãng phí cước vận tải và giảm giá trị...
Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Nguyễn Xuân Cường nhấn mạnh, để tiếp tục thúc đẩy ngành cà phê Việt Nam theo hướng bền vững, trong thời gian tới cần có những giải pháp đồng bộ đặc biệt đẩy mạnh chương trình tái canh cà phê, tập trung đầu tư thâm canh bền vững để nâng cao năng suất và chất lượng. Phấn đấu đến năm 2020 năng suất cà phê bình quân đạt 2,6 - 2,7 tấn nhân/ha và đạt khoảng 3 tấn vào năm 2030. Bên cạnh đó, cần có giải pháp đồng bộ để thúc đẩy sản xuất.