Thị trường vàng sáng 2/2: Tiếp đà tăng mạnh

08:30 | 02/02/2023

Sáng nay, giá vàng tiếp đà tăng mạnh của phiên trước trong bối cảnh bạc xanh suy yếu khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Chủ tịch Fed cho thấy quan điểm bớt diều hâu hơn về chính sách tiền tệ và báo hiệu rằng mức lãi suất có thể gần đạt đỉnh.

thi truong vang sang 22 tiep da tang manh Thị trường vàng sáng 1/2: Giảm nhẹ trong phiên đầu tháng
thi truong vang sang 22 tiep da tang manh Thị trường vàng ngày 31/1: Đi ngang và chờ đợi thông tin từ Fed

Tính đến 8h sáng nay (2/2) theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay tăng 3,9 USD (+0,2%) so với mở cửa lên 1.954 USD/oz, giao dịch đang dao động trong khoảng 1.920,5 - 1.957,6 USD/oz.

Trong khi đó, giá vàng hợp đồng tương lai tháng 2/2023 tăng 25,6 USD (+1,33%), hiện giao dịch quanh mức 1.953,4 USD/oz.

Chốt phiên hôm qua (giờ Mỹ), giá vàng giao ngay tăng 1,2%, trong phiên có lúc giá đã chạm mức cao nhất kể từ giữa tháng 4/2022, trong khi giá vàngtương lai giảm 0,1%.

thi truong vang sang 22 tiep da tang manh

Vàng tăng giá khi Fed và Chủ tịch Fed cho thấy quan điểm bớt diều hâu hơn về chính sách tiền tệ, thông tin này đã khiến bạc xanh giảm và báo hiệu cho nhà đầu tư rằng mức lãi suất có thể gần đạt đỉnh.

Hôm qua, Chủ tịch Fed Jerome Powell đã nói rằng quá trình giảm lạm phát đang được tiến hành nhưng cảnh báo rằng còn quá sớm để tuyên bố chiến thắng.

Fed đã tăng lãi suất thêm 25 điểm cơ bản vào thứ Tư, đồng thời bổ sung rằng "việc tăng liên tục trong phạm vi mục tiêu sẽ là phù hợp" để giảm lạm phát xuống mức mục tiêu 2%.

“Với hành động ngày hôm nay, chúng tôi đã tăng lãi suất thêm 4,5 điểm phần trăm trong chu kỳ thắt chặt bắt đầu từ năm ngoái,” ông Powell nói với các phóng viên tại cuộc họp báo.

Tuy nhiên, thị trường tập trung nhiều hơn vào nhận xét "giảm lạm phát" mà ông Powell chia sẻ.

“Thật hài lòng khi thấy quá trình giảm lạm phát dường như đang được tiến hành đúng hướng. Bây giờ chúng ta có thể nói, lần đầu tiên, quá trình giảm lạm phát đã bắt đầu. Và chúng ta thực sự thấy điều đó trong giá cả hàng hóa (đang có dấu hiệu giảm) cho đến nay."

Powell thừa nhận rằng Fed dự kiến giá hàng hóa sẽ bắt đầu giảm vào cuối năm 2021. “Chúng tôi đã nghĩ điều này sẽ xảy ra ngay từ đầu, và bây giờ nó đang thực sự xảy ra ở đây”, ông lưu ý, chỉ ra sự cải thiện trong chuỗi cung ứng và tình trạng thiếu hụt và nhu cầu quay trở lại với các dịch vụ.

Nhưng bất chấp tiến bộ này, Powell cảnh báo không nên tuyên bố đã chiến thắng lạm phát.

"Rất khó để quản lý rủi ro khi làm quá ít và sau 6 hoặc 12 tháng, chúng tôi phát hiện ra rằng chúng tôi thực sự đã gần đạt được mục tiêu nhưng không hoàn thành công việc, và nếu lạm phát quay trở lại, chúng tôi phải quay trở lại. Và bây giờ bạn thực sự lo lắng về những kỳ vọng không được kiểm soát," ông nói và cho biết Fed không muốn thắt chặt quá mức, nhưng có những công cụ để đối phó với điều đó.

Về định hướng sắp tới, Chủ tịch Powell nói rằng ông thấy lạm phát sẽ giảm xuống 2% mà không có sự suy giảm kinh tế đáng kể hoặc tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh. Ngoài ra, ông Powell đã loại trừ khả năng cắt giảm lãi suất vào cuối năm nay.

"Dự báo của tôi là ... tăng trưởng chậm hơn, một số điều kiện thị trường lao động yếu đi và lạm phát giảm dần, nhưng không nhanh. Nếu nền kinh tế hoạt động phù hợp với những kỳ vọng đó, sẽ không phù hợp để cắt giảm lãi suất và nới lỏng chính sách trong năm nay", chủ tịch Fed nói.

Kim loại quý được hưởng lợi từ việc ông Powell có vẻ hơi ôn hòa trong cuộc họp báo.

“Ông Powell bày tỏ sự lạc quan với quá trình giảm phát và không tỏ ra lo ngại về việc nới lỏng các điều kiện tài chính gần đây. Chủ tịch khá ôn hòa khi ông ấy không thuyết phục được thị trường rằng biểu đồ dot plot của tháng 12/2022 vẫn có thể xảy ra. Ông cũng nói thêm rằng Fed sẽ không cắt giảm lãi suất trong năm nay, nhưng có vẻ như không ai tin vào điều đó", chuyên gia phân tích thị trường cấp cao của OANDA, Edward Moya nói.

Chuyên gia phân tích của Standard Chartered, Suki Cooper cho rằng: “Fed báo hiệu lãi suất sắp đạt đỉnh và nhấn mạnh lạm phát đang giảm đã giúp giá vàng tăng khi bạc xanh và lãi suất thực giảm”.

“Chúng tôi duy trì quan điểm Fed sẽ tạm dừng nâng lãi suất trước khi cắt giảm lãi suất vào nửa cuối năm 2023. Vàng đã tìm thấy sự hỗ trợ và vị thế của nhà đầu tư vàng được nâng lên trong giai đoạn này của chu kỳ nâng lãi suất, cho thấy nhiều yếu tố hỗ trợ vĩ mô đã được định giá và giá vàng có thể đạt đỉnh trong quý I/2023”, Cooper nói thêm.

Ở thông tin khác, quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust hôm qua đã mua vào 1,45 tấn vàng, nâng lượng vàng nắm giữ lên 918,5 tấn.

thi truong vang sang 22 tiep da tang manh

Tại thị trường trong nước, sáng nay, giá vàng SJC được Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) niêm yết tại TP.HCM ở mức 66,60 - 67,40 triệu đồng/lượng, không đổi so với cuối phiên trước đó.

Tại Hà Nội, giá vàng SJC được niêm yết ở mức 66,60 - 67,42 triệu đồng/lượng, không đổi so với cuối phiên trước đó.

Trong khi đó, giá vàng DOJI tại TP.HCM và Hà Nội cùng được niêm yết ở mức 66,40 - 67,30 triệu đồng/lượng, không đổi so với cuối phiên trước đó.

P.L

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.330 23.700 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.380 23.680 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.345 23.705 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.390 23.750 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.270 23.650 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.345 23.730 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.355 23.705 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.390 23.720 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.450
67.170
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.450
67.150
Vàng SJC 5c
66.450
67.170
Vàng nhẫn 9999
54.500
55.500
Vàng nữ trang 9999
54.300
55.100