Thị trường vàng sáng 8/2: Tăng trở lại

09:01 | 08/02/2023

Sáng nay, giá vàng tăng trở lại sau khi phiên điều chỉnh nhẹ trước đó, trong bối cảnh bạc xanh có dấu hiệu suy yếu và khi thị trường xem xét những phát biểu từ Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) Jerome Powell về triển vọng chính sách lãi suất.

thi truong vang sang 82 tang tro lai Thị trường vàng sáng 7/2: Tiếp đà hồi phục
thi truong vang sang 82 tang tro lai Thị trường vàng sáng 6/2: Tăng trở lại sau tuần giảm mạnh

Tính đến 8h30 sáng nay (8/2) theo giờ Việt Nam, giá vàng giao ngay tăng 5,5 USD (+0,29%) so với mở cửa lên 1.878 USD/oz, giao dịch đang dao động trong khoảng 1.865 - 1.885,6 USD/oz.

Trong khi đó, giá vàng hợp đồng tương lai tháng 4/2023 tăng 5,3 USD (+0,28%), hiện giao dịch quanh mức 1.890,1 USD/oz.

Tính đến cuối giờ chiều qua (giờ Mỹ), giá vàng giao ngay giảm nhẹ 0,06%, trong khi giá vàng tương lai tăng nhẹ 0,03%.

thi truong vang sang 82 tang tro lai

Trong cuộc phỏng vấn với David Rubenstein, Chủ tịch Câu lạc bộ Kinh tế của Washington, D.C, Chủ tịch Fed Powell đã khiến nhiều chuyên gia kinh tế thấy "bất an" khi phát biểu rằng: “Một phần lớn đóng góp vào lạm phát có liên quan đến đại dịch”.

Trước đó, lý do lạm phát đạt mức cao nhất trong 40 năm buộc Fed phải tăng lãi suất và có ý định giữ lãi suất cao trong suốt năm 2023 được các chuyên gia cho rằng ít liên quan đến đại dịch mà xuất phát từ quan điểm chủ quan của Fed.

Giả định rằng lạm phát là nhất thời và sẽ giảm bớt một cách tự nhiên là lý do Fed đưa ra để không hành động sớm, điều này khiến lạm phát tăng lên mức cao kỉ lục.

Các chuyên gia cho rằng, nếu Fed hành động ngay khi CPI mới tăng 1,7% so với cùng kỳ vào tháng 3/2020 hoặc 2,6% vào tháng 5/2020, thì lạm phát có thể đã được kiểm soát hiệu quả sau một vài đợt tăng lãi suất nhỏ để đưa đỉnh lãi suất lên 2,5%, bằng với tỷ lệ lạm phát cùng thời gian đó.

Trong lịch sử, để đối phó với lạm phát Fed đều tăng lãi suất lên ngay dưới hoặc trên mức tăng CPI tại thời điểm đó. Tuy nhiên với lần này, Fed đã không "đi theo con đường quen thuộc" mà họ đã từng làm để giảm lạm phát cao. Fed đã tự đưa mình vào thế khó, đây là nguyên nhân chính buộc Fed phải chuyển sang chính sách "mạnh tay" hiện nay.

Trong bài phát biểu hôm qua, Chủ tịch Fed cho biết báo cáo việc làm mới nhất của Mỹ cho thấy quá trình đưa lạm phát về gần mức mục tiêu 2% sẽ “mất khá nhiều thời gian”, đồng thời lưu ý rằng việc tiếp tục nâng lãi suất trong tương lai là điều cần thiết.

Bạc xanh đã phản ứng ngay sau bài phát biểu của ông Powell và đã rời khỏi mức đỉnh 1 tháng, qua đó hỗ trợ phần nào cho kim loại quý.

Hành động gần đây của Fed được cho là có thể tạo cơ hội cho các nhà đầu tư. Việc giá vàng giảm ở một vài phiên nào đó trong giai đoạn này được các chuyên gia cho là cần thiết, vì khi sự điều chỉnh này kết thúc thì thị trường sẽ chuyển sang xu hướng tăng.

Trên góc độ kỹ thuật, các chuyên gia cho rằng nếu giá vàng tiếp tục giảm xuống hai điểm giá là 1.846 USD/oz, tương đương mức thoái lui 50%; hay 1.816 USD/oz, tương đương mức thoái lui 61,8%, thì các nhà đầu tư có thể cân nhắc mua vào. Cả hai mục tiêu giá trên đều dựa trên mức thoái lui Fibonacci được xây dựng từ mức thấp bắt đầu là 1.719 USD/oz và lên đến mức cao là 1.980 USD/oz.

Ở thông tin khác, hôm qua, quỹ giao dịch vàng lớn nhất thế giới SPDR Gold Trust đã mua vào 2,9 tấn vàng, nâng lượng vàng nắm giữ lên 920,82 tấn.

thi truong vang sang 82 tang tro lai

Tại thị trường trong nước, sáng nay, giá vàng SJC được Công ty Vàng bạc Đá quý Sài Gòn (SJC) niêm yết tại TP.HCM ở mức 66,60 - 67,40 triệu đồng/lượng, tăng 50 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua - bán so với cuối phiên trước đó.

Tại Hà Nội, giá vàng SJC được niêm yết ở mức 66,60 - 67,42 triệu đồng/lượng, tăng 50 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua - bán so với cuối phiên trước đó.

Trong khi đó, giá vàng DOJI tại TP.HCM 66,30 - 67,30 triệu đồng/lượng, tăng 100 nghìn đồng/lượng ở cả hai chiều mua - bán so với cuối phiên trước đó.

Tại Hà Nội, giá vàng DOJI được niêm yết ở mức 66,25 - 67,25 triệu đồng/lượng, tăng 50 nghìn đồng/lượng ở chiều mua vào và tăng 100 nghìn đồng/lượng ở giá bán ra so với cuối phiên trước đó.

P.L

Nguồn:

Thông tin chứng khoán

Cập nhật ảnh...
Nguồn : stockbiz.vn
Ngân hàng
KKH
1 tuần
2 tuần
3 tuần
1 tháng
2 tháng
3 tháng
6 tháng
9 tháng
12 tháng
24 tháng
Vietcombank
0,10
0,20
0,20
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
BIDV
0,10
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,90
7,20
7,20
VietinBank
0,10
0,20
0,20
0,20
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Cake by VPBank
1,00
-
-
-
6,00
-
6,00
8,90
-
9,00
9,00
ACB
-
1,00
1,00
1,00
5,50
5,60
5,70
6,70
6,90
7,10
7,80
Sacombank
-
-
-
-
5,50
5,60
5,70
7,50
7,70
7,90
8,30
Techcombank
0,30
-
-
-
5,90
5,90
5,90
7,70
7,70
7,70
7,70
LienVietPostBank
-
0,10
0,10
0,10
6,00
6,00
6,00
7,60
7,60
8,00
8,50
DongA Bank
1,00
1,00
1,00
1,00
6,00
6,00
6,00
8,55
8,60
8,65
9,20
Agribank
0,50
-
-
-
4,90
4,90
5,40
5,80
5,80
7,20
7,20
Eximbank
0,20
1,00
1,00
1,00
5,60
5,70
5,80
6,30
6,60
7,10
7,50
Ngân Hàng USD EUR GBP JPY
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Vietcombank 23.330 23.700 24.662 26.042 27.702 28.883 175,33 185,62
BIDV 23.380 23.680 24.859 26.062 27.830 28.912 173.60 182.70
VietinBank 23.345 23.705 24.488 26.123 28.168 29.178 176,97 184,92
Agribank 23.390 23.750 24.910 26.057 27.948 28.857 177,53 185,26
Eximbank 23.270 23.650 24.970 25.647 28.029 28.789 177,36 182,17
ACB 23.350 23.800 25.009 25.606 28.028 28.765 177,51 181,93
Sacombank 23.345 23.730 25.080 25.687 28.247 28.862 177,80 183,35
Techcombank 23.355 23.705 24.760 26.090 27.766 29.067 173,38 185,81
LienVietPostBank 23.390 24.010 24.880 26.235 28.154 29.108 176,00 187,77
DongA Bank 23.390 23.720 24.980 25.620 28.050 28.760 176,5 182,10
(Cập nhật trong ngày)

Giá vàng Xem chi tiết

Khu vực
Mua vào
Bán ra
HÀ NỘI
Vàng SJC 1L
66.450
67.170
TP.HỒ CHÍ MINH
Vàng SJC 1L
66.450
67.150
Vàng SJC 5c
66.450
67.170
Vàng nhẫn 9999
54.500
55.500
Vàng nữ trang 9999
54.300
55.100