Vì sao ngân hàng làm dày “bộ đệm” dự phòng?
TS. Nguyễn Hữu Huân |
Nhiều ngân hàng tích cực làm dày “bộ đệm” dự phòng, điều này có ý nghĩa như thế nào, thưa ông?
Trong thời gian gần đây, các ngân hàng đẩy mạnh tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu như Vietcombank có tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên tới hơn 500%, hàng loạt ngân hàng cũng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao hơn 100% có rất nhiều ý nghĩa. Điều này chứng tỏ các ngân hàng đang thận trọng về sức khoẻ của các doanh nghiệp trong giai đoạn hiện tại khi lạm phát, suy thoái toàn cầu đang gây nhiều khó khăn. Đặc biệt, nó đang cho thấy sự chủ động trong việc xác định những rủi ro về nợ xấu trong tương lai để tích cực làm dày “bộ đệm” dự phòng. Trường hợp nếu doanh nghiệp không trả được nợ, chuyển nhóm nợ xấu thì ngân hàng cũng có nguồn để xử lý.
Việc trích lập bao nhiêu sẽ tuỳ “sức khỏe” của mỗi ngân hàng. Nên tỷ lệ bao phủ nợ xấu giữa các ngân hàng cũng có sự khác biệt. Ngân hàng nào hoạt động hiệu quả, có kết quả kinh doanh tốt sẽ trích lập dự phòng cao và họ coi đây như “của để dành”, đảm bảo hoạt động ổn định trong dài hạn.
Còn một số ngân hàng có lợi nhuận không cao, dù muốn cũng không thể trích lập nhiều mà chỉ trích đủ, nên tỷ lệ bao phủ nợ xấu ở mức khiêm tốn. Với bộ đệm dự phòng mỏng, các ngân hàng này sẽ gặp khó khăn hơn khi phải xử lý các khoản vay tiềm ẩn rủi ro chuyển thành nợ xấu.
“Bộ đệm” dày có đồng nghĩa với việc ngân hàng đã nằm trong vùng an toàn không, thưa ông?
Không thể đảm bảo an toàn 100%, nhưng rõ ràng ngân hàng đã có sự chuẩn bị cho các rủi ro. Về phía NHNN cũng điều hành chính sách chủ động linh hoạt, kiểm soát chặt tín dụng vào lĩnh tiềm ẩn rủi ro... Đó là những điều chúng ta có thể tự tin về sự ổn định của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, ngoài việc đưa ra một “bộ đệm” dày, ngân hàng phải nâng cao tinh thần cảnh giác, năng lực quản trị rủi ro tín dụng, không đơn thuần là trích lập dự phòng càng cao càng tốt mà phải kiểm soát được rủi ro tín dụng, rủi ro đạo đức khi nhân viên thực hiện hoạt động thẩm định cấp tín dụng.
Đối với những khoản tiềm ẩn nợ xấu cao và kể cả nợ đang nằm trong vùng an toàn nhưng ngân hàng cảm thấy có nguy cơ rủi ro thì phải có những hành động cảnh báo sớm, đưa ra những phương án xử lý nếu xảy ra nợ xấu.
Ông nhận định thế nào về áp lực nợ xấu của các ngân hàng trong hiện tại và giai đoạn tới đây?
Mặc dù Việt Nam được đánh giá là nước ít chịu ảnh hưởng hơn bởi những biến động căng thẳng địa chính trị, lạm phát trên thế giới và các yếu tố khác, nhưng rõ ràng chúng ta vẫn phải đối mặt những khó khăn chung của kinh tế thế giới, đặc biệt là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, do tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng gây khó khăn để tìm nguồn nguyên liệu sản xuất... Còn với các doanh nghiệp du lịch trong hơn hai năm dịch đã “kiệt sức” mới chỉ bắt đầu hồi phục và vẫn hoạt động cầm chừng.
Chưa kể, các khoản nợ tái cơ cấu cũng tiềm ẩn rủi ro chuyển thành nợ xấu khi doanh nghiệp không thể trả nợ.
Ngoài ra, việc bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ của ngân hàng đang gặp khá nhiều khó khăn do thủ tục rườm rà, mất nhiều thời gian ảnh hưởng lớn tới tốc độ và thu hồi vốn của ngân hàng. Có thể thấy, áp lực nợ xấu hiện nay khá cao. Vì vậy, mỗi ngân hàng phải có kế hoạch dự phòng hợp lý.
Thời gian tới, cần có cơ chế hỗ trợ từ các cơ quan liên quan giúp ngân hàng thu hồi vốn nhanh chóng, giảm tỷ lệ nợ xấu và tái cho vay.
Xin cảm ơn ông!