Vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 4 tháng năm 2024 tăng 7,4% so với cùng kỳ
Tính đến 20/4/2024, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần (GVMCP) của nhà ĐTNN đạt hơn 9,27 tỷ USD, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, ngoài vốn đầu tư điều chỉnh và GVMCP giảm thì vốn đầu tư đăng ký mới vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ.
Cụ thể, có 966 dự án mới (tăng 28,8% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký đạt hơn 7,11 tỷ USD (tăng 73,2% so với cùng kỳ); Có 345 lượt dự án đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư (giảm 10,6% so với cùng kỳ), tổng vốn đăng ký tăng thêm đạt hơn 1,23 tỷ USD (giảm 25,6% so với cùng kỳ); Có 902 lượt GVMCP (giảm 13,6% so với cùng kỳ), tổng giá trị vốn góp đạt gần 929,6 triệu USD (giảm 70,1% so với cùng kỳ).
ĐTNN 4 tháng đầu năm 2024 theo tháng |
Vốn thực hiện của dự án ĐTNN tính tới 20/4/2024 ước đạt khoảng 6,28 tỷ USD, tăng 7,4% so với cùng kỳ năm 2023.
Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đạt hơn 6,15 tỷ USD, chiếm gần 66,4% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 19,8% so với cùng kỳ. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ 2 với tổng vốn đầu tư hơn 1,73 tỷ USD, chiếm gần 18,7% tổng vốn đầu tư đăng ký, tăng 78,2% so với cùng kỳ. Tiếp theo lần lượt là các ngành bán buôn bán lẻ; vận tải kho bãi với tổng vốn đăng ký đạt lần lượt hơn 451,4 triệu USD và gần 383,2 triệu USD. Còn lại là các ngành khác.
Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành dẫn đầu về số dự án mới (chiếm 37,2%) và điều chỉnh vốn (chiếm 60,3%). Ngành bán buôn, bán lẻ dẫn đầu về số lượt giao dịch GVMCP cao nhất (chiếm 44,2%).
Cơ cấu ĐTNN 4 tháng đầu năm 2024 theo ngành |
Đã có 75 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2024. Trong đó, Singapore dẫn đầu với tổng vốn đầu tư gần 2,93 tỷ USD, chiếm 31,5% tổng vốn đầu tư, tăng 33,3% so với cùng kỳ 2023. Hồng Kông đứng thứ hai với hơn 1,18 tỷ USD, chiếm 12,8% tổng vốn đầu tư, gấp gần hơn 2 lần so với cùng kỳ. Đầu tư của Singapore và Hồng Kông chủ yếu là đầu tư mới, chiếm lần lượt 88,5% và 75,9% tổng vốn đầu tư của Singapore và Hồng Kông trong 4 tháng. Tiếp theo là Nhật Bản, Trung Quốc,…
Xét về số dự án, Trung Quốc là đối tác dẫn đầu về số dự án đầu tư mới (chiếm 28,8%); Hàn Quốc dẫn đầu về số lượt điều chỉnh vốn (chiếm 22,9%) và GVMCP (chiếm 27,2%).
Cơ cấu ĐTNN 04 tháng đầu năm 2024 theo đối tác |
Bốn tháng đầu năm 2024, Các nhà ĐTNN đã đầu tư vào 44 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trong đó, Bà Rịa - Vũng Tàu dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 1,52 tỷ USD, chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư cả nước, gấp hơn 12 lần cùng kỳ (do có dự án lớn với tổng vốn đầu tư 730 triệu USD). Tiếp theo là Hà Nội với gần 1,15 tỷ USD, chiếm 12,4% tổng vốn đầu tư đăng ký và giảm 32,7% so với cùng kỳ năm 2023. Bắc Ninh đứng thứ ba với tổng vốn đầu tư đăng ký gần 998,3 triệu USD, chiếm gần 10,8% tổng vốn đầu tư cả nước. Tiếp theo lần lượt là Quảng Ninh, Thái Nguyên, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai,…
Nếu xét về số dự án, TP. Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước cả về số dự án mới (chiếm 37%), điều chỉnh vốn (chiếm 18,3%) và GVMCP (chiếm 72,3%).
Cơ cấu ĐTNN 4 tháng đầu năm 2024 theo địa phương |
Tháng 4 ghi nhận lượng vốn đầu tư mới và giá trị các giao dịch GVMCP cao hơn các tháng đầu năm 2024, số dự án đầu tư mới cũng đạt mức cao nhất kể từ đầu năm. Tuy nhiên, mức tăng tổng vốn đầu tư đăng ký (bao gồm cả đầu tư mới, điều chỉnh, GVMCP) so với cùng kỳ năm 2024 chỉ đạt 4,5%, giảm 8,9 điểm phần trăm so với 3 tháng năm 2024 do giá trị GVMCP 4 tháng năm 2024 giảm khá mạnh so với cùng kỳ năm 2023.
Vốn đầu tư tập trung nhiều vào các tỉnh, thành phố có nhiều lợi thế trong thu hút ĐTNN (cơ sở hạ tầng tốt, nguồn nhân lực ổn định, nỗ lực cải cách thủ tục hành chính và năng động trong công tác xúc tiến đầu tư,…) như Hà Nội, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Thái Nguyên, TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Hưng Yên, Bắc Giang, Hải Phòng. Riêng 10 địa phương này đã chiếm 74,8% số dự án mới và 79,1% số vốn đầu tư của cả nước trong 4 tháng.
Các đối tác đầu tư lớn nhất trong 04 tháng đầu năm đều là các đối tác truyền thống của Việt Nam và đến từ Châu Á. Riêng 5 đối tác dẫn đầu (Singapore, Hồng Kông, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc) đã chiếm tới 73,1% số dự án đầu tư mới và 73,4% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước.
Nhiều dự án lớn ở các lĩnh vực năng lượng (sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic), sản xuất linh kiện, sản phẩm điện tử, sản phẩm nhiều giá trị gia tăng được đầu tư mới và mở rộng vốn trong 4 tháng.
Tính lũy kế đến ngày 20/04/2024, cả nước có 40.049 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký gần 478,6 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt khoảng 303,46 tỷ USD, bằng 63,4% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.Trong 4 tháng đầu năm 2024, các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài 36 dự án đầu tư mới và 03 lượt điều chỉnh vốn đầu tư. Tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài đạt 98,86 triệu USD (bằng 64,4% so với cùng kỳ). Các nhà đầu tư Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài ở 11 ngành. Trong đó, vốn đầu tư tập trung nhiều nhất vào các ngành khai khoáng (chiếm 59,3% vốn), bán buôn, bán lẻ (chiếm 11,7% vốn); dịch vụ khác (chiếm 10,1% vốn); xây dựng (chiếm 5,6% vốn). Còn lại là các ngành khác. |