Vốn ngân hàng góp phần xanh hóa ngành dệt may
Ngày 12/01/2022, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam phối hợp với Tổ chức quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên (WWF) tổ chức hội thảo “Đánh giá rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng đối với ngành dệt may”, nhằm giúp các TCTD nâng cao kiến thức, hiểu rõ hơn những cơ hội, tiềm năng phát triển cũng như những thách thức, rủi ro của ngành dệt may, đặc biệt là rủi ro về môi trường và xã hội, từ đó đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp.
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cho biết, ngành dệt may trong nhiều năm qua là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Nhờ sự phát triển của công nghệ kỹ thuật, đội ngũ lao động có tay nghề ngày càng chiếm tỷ lệ lớn và sự ưu đãi từ các chính sách của Nhà nước, ngành dệt may đã thu được những kết quả đáng khích lệ, vừa tạo ra giá trị hàng hóa xuất khẩu, vừa đảm bảo nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Tuy nhiên, dệt may được đánh giá là một trong các ngành kinh tế có mức độ rủi ro môi trường và xã hội cao so với các ngành, lĩnh vực kinh tế khác do quá trình sản xuất cần phải khai thác, sử dụng và xả thải một lượng nước lớn, đồng thời sử dụng nhiều năng lượng cho việc đun nóng, tạo ra hơi nước dẫn đến tác động lên nguồn nước và góp phần gia tăng khí phát thải nhà kính. Chính vì vậy, ngành dệt may là một trong các ngành được xếp vào đối tượng ảnh hưởng rủi ro về môi trường và nằm trong diện cần đánh giá khi cấp tín dụng.
Về phía ngành Ngân hàng, theo chia sẻ của ông Hùng, NHNN đã rất quan tâm, ban hành nhiều văn bản quy định về tín dụng phù hợp với mục tiêu bảo vệ môi trường, giảm thải carbon, hướng tới tăng trưởng xanh. Thực hiện chỉ đạo của NHNN, các TCTD đã tổ chức thực hiện một cách nghiêm túc bằng việc xây dựng chính sách cấp tín dụng ưu đãi đối với khách hàng có phương án, dự án sản xuất kinh doanh đáp ứng mục tiêu tăng trưởng xanh.
Kết quả, tính đến tháng 11/2021, có 67 TCTD triển khai “tín dụng xanh”, dư nợ cấp tín dụng đối với các dự án xanh chiếm khoảng hơn 4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, tăng 0,46% so với năm 2020. Tuy nhiên, dư nợ đối với ngành dệt may chỉ khoảng 145.000 tỷ đồng (tăng khoảng 5.000 tỷ đồng so với thời điểm cuối năm 2020), chiếm gần 1,5% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế.
Với mục tiêu hướng tới tăng trưởng xanh và phát triển bền vững, bên cạnh yếu tố hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh, ông Hùng cho rằng các TCTD sẽ hướng đến tài trợ tín dụng cho các ngành kinh tế xanh, bảo vệ môi trường.
Theo bà Hoàng Thị Thanh Nga, Trưởng nhóm ngành dệt may của WWF, có 4 lý do chính lý giải cho sự cần thiết của chương trình “xanh hóa dệt may” đối với Việt Nam. Đầu tiên, để tận dụng các cơ hội miễn/giảm thuế quan của các FTA với châu Âu và các nước (EVFTA, CPTTP), Việt Nam cần đảm bảo các yêu cầu của FTA về nguồn nguyên liệu (từ vải hoặc sợi trở đi, đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường - xã hội).
Thứ hai, để đảm bảo an ninh nước, năng lượng và các cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu, Chính phủ đang thắt chặt các quy định, thuế quan liên quan đến nước, năng lượng và sử dụng hoá chất, đồng thời chính quyền địa phương cũng rất cẩn trọng về tác động môi trường của dự án dệt vải khi cấp phép đầu tư.
Thứ ba, ngày càng nhiều nhãn hàng cam kết với các mục tiêu bền vững và đặt ra tiêu chí rõ ràng cho chuỗi cung ứng của họ.
Thứ tư, Việt Nam đang mất dần các lợi thế cạnh tranh truyền thống (giá rẻ, yêu cầu thấp với FDI) và cần phải tạo ra lợi thế cạnh tranh mới bằng cách chuyển đổi sang “sản xuất tại Việt Nam một cách bền vững”.
Chương trình “Xanh hóa ngành dệt may Việt Nam thông qua cải thiện quản lý nước và năng lượng bền vững” của WWF được phát triển nhằm tạo ra những thay đổi tích cực cho ngành dệt may Việt Nam. Đồng thời, giúp kết nối các đơn vị quản lý môi trường và quản lý ngành nhằm mang lại lợi ích xã hội, kinh tế và bảo vệ môi trường tại Việt Nam và toàn bộ khu vực sông Mekong.
Sự can thiệp của dự án tập trung vào việc nâng cao nhận thức để thúc đẩy thay đổi hành vi, tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ (SME), phân khúc thị trường mà các tổ chức tài chính ở Việt Nam có lợi thế với mạng lưới chuyên nghiệp rộng khắp cả nước và hệ thống giám sát chất lượng tín dụng tốt trong phát triển các giải pháp bền vững về nước và năng lượng.