Kỹ thuật số sẽ thay đổi bộ mặt ngành du lịch
Diễn đàn do Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) phối hợp cùng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Hội đồng Tư vấn du lịch quốc gia (TAB) và báo VnExpress tổ chức.
Có thể chỉ mất 7 năm để đuổi kịp Thái Lan
Theo bà Tuyết Vũ, đại diện Tập đoàn Tư vấn toàn cầu Boston (BCG), Việt Nam đã cho thấy sự tăng trưởng ấn tượng trong ngành du lịch và đạt nhiều thành tựu tự hào.
Đơn cử, tốc độ tăng trưởng lượt khách quốc tế hàng năm là 30% trong 3 năm qua - con số rất nhiều quốc gia mong muốn; xếp thứ 6 trong top 10 điểm đến phát triển nhanh nhất trên toàn thế giới trong năm 2017.
Việt Nam đồng thời thu hút 15 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đầu tư vào du lịch tính đến thời điểm cuối năm 2017, tạo việc làm và thu nhập trực tiếp cho trên 2 triệu người...
“Có thể nói, Việt Nam đã rất thành công, ít nhất trong thập kỷ vừa qua. Mặt khác, ngành du lịch Việt Nam còn nhiều tiềm năng phát triển mà vẫn chưa khai thác hết”, bà Tuyết nói.
.
Ông Kenneth Atkinson, Chủ tịch Điều hành Grant Thornton Việt Nam cho rằng, Thái Lan mất hơn 20 năm để tăng trưởng đạt 30 triệu lượt khách như hiện tại nên việc Việt Nam tăng trưởng từ 12,6 triệu lượt năm 2017 lên 16 triệu lượt năm 2018 là tín hiệu khả quan.
“Nếu có sự phối hợp tốt để đầu tư vào hạ tầng, du lịch Việt Nam có khả năng tăng trưởng nhiều hơn và có thể chỉ mất 7 năm để đạt lượng khách như Thái Lan hiện tại”, ông dự báo.
Bà Tuyết Vũ cũng đưa ra nghiên cứu cho thấy, sẽ có 3 xu hướng của ngành du lịch thời gian tới. Thứ nhất là số hoá, như sự phổ biến của số hoá trong toàn chuỗi điểm: điểm đến tiếp theo là gì, điểm đặt vé khách sạn, việc khách quay lại và chia sẻ trải nghiệm. Thứ hai là họ chi tiền thế nào, chi nhiều cho chuyến bay, cho khách sạn hay cái khác. Thứ ba là trải nghiệm họ tìm kiếm: du khách muốn trải nghiệm nhiều hơn văn hoá địa phương, điểm đến mới...
Bà Tuyết Vũ cho biết, khách du lịch hiện tại sử dụng công nghệ kỹ thuật số rất nhiều. Trước khi đi du lịch, du khách lên Google để tìm kiếm thông tin. Sau đó, họ sử dụng điện thoại di động để đặt vé máy bay, khách sạn, kết nối với bạn bè qua mạng xã hội...
“Cách du lịch của người dân đã thay đổi. 58% sử dụng tìm kiếm qua giọng nói để tìm hiểu về chuyến đi, 81% đọc bình luận, các bài viết quảng bá trước khi quyết định du lịch hay không…”, bà Tuyết cho hay.
Với xu hướng này, thị trường du lịch trực tuyến trên toàn cầu cũng như khu vực Đông Nam Á, theo bà Tuyết, sẽ chịu ảnh hưởng, tác động rất nhiều. Trong 10 quốc gia du lịch đến Việt Nam, nghiên cứu chỉ ra rằng phần lớn khách du lịch sử dụng di động để trải nghiệm hành trình.
Điều này đòi hỏi ngành du lịch cần biết dịch chuyển các hoạt động quảng cáo, bán hàng, tiếp thị lên nền tảng số. Việc thay đổi giao diện các nền tảng, ảnh, video, quản trị bình luận về các điểm đến cũng như tận dụng người nổi tiếng để quảng bá du lịch cũng cần những chiến lược mới, cách làm và tư duy mới.
Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao
Đề cập đến vấn đề nhân lực nguồn nhân lực, ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Phát triển Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng nhân lực chất lượng cao là một trong những điểm nghẽn của du lịch Việt.
Năm 2000, tổng doanh thu ngành du lịch chỉ có 1,23 tỷ USD và tăng lên 22,71 tỷ USD vào năm 2017. Nếu nhìn vào con số thì đây có thể là tăng trưởng ấn tượng, nhưng nếu lấy giá trị ngành du lịch tạo ra chia cho tổng lao động thì tăng trưởng năng suất khá thấp.
Không chỉ so với các nước, năng suất lao động du lịch thậm chí còn thấp hơn so với nhiều ngành kinh tế khác của Việt Nam. Năng suất lao động của Việt Nam bằng 45% so với Malaysia và 40% so với Thái Lan.
Ông Thành nêu dẫn chứng trên và cho rằng, đào tạo nhân lực cũng đang là một bất cập của ngành du lịch Việt Nam. Trong khi thị trường cần kiến thức tổng quát, ngoại ngữ, kỹ năng mềm, tính chuyên nghiệp và thái độ làm việc, năng lực quản lý, lãnh đạo… thì các chương trình đào tạo lại đang đi vào các phân ngành hẹp, thiên về nghiệp vụ mà thiếu đào tạo thực tiễn.