Lựa chọn chính sách vĩ mô thời kỳ sau khủng hoảng
Các chính sách vĩ mô thận trọng
Đây là lần thứ ba IMF tổ chức hội nghị để đánh giá về vấn đề này. Hội nghị đầu tiên diễn ra vào năm 2011, hội nghị lần hai diễn ra vào năm 2013 và kết quả của các hội nghị này được ấn bản qua các cuốn sách với tiêu đề: "Tỉnh giấc từ khủng hoảng" và "Chúng ta đã học được gì?”.
Các nhà hoạch định chính sách đang khó khăn trong lựa chọn chính sách vĩ mô sau khủng hoảng tài chính |
Theo ông Olivier Blanchard, chuyên gia kinh tế trưởng của IMF, đây là thời điểm thích hợp tổ chức hội nghị tiếp theo để đánh giá về hiệu quả, tác động của những chính sách vĩ mô được các nước áp dụng trong những năm gần đây, đồng thời đưa ra những gợi ý chính sách mới.
“Nhiều chính sách đã được thử nghiệm; nhiều cuộc tranh luận gay gắt đã diễn ra và nhiều nghiên cứu đánh giá cũng đã và đang được tiến hành. Nhưng vấn đề lớn nhất là liệu chúng ta thực sự đã có nhiều tiến bộ trong điều hành chính sách? Có phải chúng ta đang tiến gần hơn tới một khuôn khổ chính sách mới?” - ông Olivier Blanchard nêu quan điểm.
Và để giải quyết những câu hỏi như vậy, hội nghị lần thứ ba này sẽ tập trung vào chủ đề: "Suy nghĩ lại chính sách vĩ mô III: Tiến bộ hay sự lẫn lộn".
Trọng tâm của hội nghị sẽ tập trung bàn về cấu trúc của các chính sách vĩ mô khi trên toàn cầu, các lãi suất chính sách đã trở lại với xu thế tích cực và hầu hết các nước đang hồi phục tăng trưởng tích cực với tỷ lệ nợ/GDP đã ổn định hơn. Nói cách khác, các chính sách vĩ mô sẽ và nên như thế nào khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ở phía sau?
Việc đưa vào nhiều quy chế tài chính và sử dụng các công cụ bảo đảm an toàn vĩ mô đã được nhiều nước sử dụng trong những năm vừa qua, đặc biệt là thời điểm cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng và ở mức độ trầm trọng. Cho dù còn nhiều tranh luận và ý kiến trái chiều nhưng việc sử dụng hợp lý các công cụ này đã và đang giúp các quốc gia đối phó tốt hơn với các rủi ro tài chính.
Đồng thời, nó cũng cho phép chính sách tài khóa (CSTK) và chính sách tiền tệ (CSTT) đối phó kịp thời hơn với những vấn đề truyền thống trong điều hành KTVM.
Tuy nhiên trong thực tế, câu chuyện làm sao sử dụng hợp lý các công cụ này thiếu rõ ràng và khó khăn hơn nhiều. “Mặc dù nhiều quốc gia đã thử nghiệm các công cụ này nhưng chúng ta vẫn đang phải vật lộn với việc trong trường hợp nào và điều kiện nào thì sẽ sử dụng công cụ bảo đảm an toàn vĩ mô nào cho thích hợp. Đâu là mức độ tin cậy, hiệu ứng của chúng sẽ ra sao và làm thế nào để sử dụng các công cụ đó hiệu quả vẫn là những vấn đề phải đặt ra. Việc sử dụng các công cụ đó không chỉ đòi hỏi kiến thức mà cần cả các yếu tố về kinh tế và chính trị” – chuyên gia này cho biết và lưu ý: “Các quy định tài chính vĩ mô và công cụ bảo đảm an toàn vĩ mô nếu không được sử dụng khéo léo có thể khiến tình hình thêm phức tạp và phản tác dụng”.
Những vướng mắc về CSTT và CSTK
Ngay cả trước khi cuộc khủng hoảng bắt đầu, đã có những quan điểm rất khác nhau về việc liệu các NHTW chỉ nên có một nhiệm vụ duy nhất (là ổn định giá cả) hay phải gánh vác một nhiệm vụ kép (là ổn định giá cả và đảm bảo cho các hoạt động kinh tế ổn định). Cuộc khủng hoảng đã làm tăng thêm tính phức tạp của cuộc tranh luận này. Theo đó, các NHTW không chỉ phải thực hiện nhiệm vụ kép nêu trên, mà còn phải gánh thêm nhiệm vụ ổn định tài chính.
Với giả định rằng, quy chế tài chính và các công cụ an toàn vĩ mô không đủ để đảm bảo ổn định tài chính, thì CSTT có nên gánh thêm trách nhiệm này? Nếu câu trả lời là nên thì lại nảy sinh một loạt vấn đề khác cần giải quyết.
Đơn cử như, làm thế nào để có thể phối hợp được tốt giữa CSTT với các công cụ bảo đảm an toàn vĩ mô? Có nên đưa cả vai trò điều hành CSTT và các công cụ bảo đảm an toàn vĩ mô thuộc về NHTW? Hay khi NHTW có thêm nhiệm vụ ổn định tài chính, tức là họ sẽ có những công cụ để có thể can thiệp vào các lĩnh vực cụ thể trong nền kinh tế mà như vậy liệu NHTW liệu còn đảm bảo được vai trò hoàn toàn độc lập của mình?
Trong giai đoạn hệ thống tài chính bị đóng băng và các công cụ của CSTT dường như không còn phát huy tác dụng vừa qua, nhiều nền kinh tế phát triển đã dựa vào CSTK để kích thích kinh tế. Kết quả dẫn đến sự gia tăng đáng kể trong tỷ lệ nợ/GDP.
Từ đó, xuất hiện một vấn đề cần làm rõ nên coi đâu là mức trần nợ cao nhất để từ đó can thiệp bình ổn và giảm dần xuống. Trong thời gian vừa qua, các vấn đề của nợ công châu Âu, trần nợ công của Mỹ… đã cho thấy rõ điều này.
Cho dù thế giới hiện nay dường như đã qua được cảnh mà có quá nhiều nước phải tiến hành các chính sách “thắt lưng buộc bụng” để cân bằng lại tài khóa và ngân sách nhưng các chuyên gia cho rằng, vẫn còn rất nhiều vấn đề còn tồn tại từ cuộc khủng hoảng vừa qua và sẽ kéo dài hàng thập kỷ nữa.
Trong đó, có rất nhiều câu hỏi được đặt ra như: Đâu là giới hạn của một mức nợ nguy hiểm? Những hệ lụy, tác động của củng cố tài khóa là gì? Liệu có nên khôi phục “quy tắc vàng tài khóa” là tách biệt giữa tài khoản vãng lai và tài khoản vốn? Hay nếu cho rằng các quy định về chính sách tài khóa của EU là quá phức tạp và không tối ưu thì liệu ai đó có thể đưa ra các nguyên tắc tài khóa tốt hơn?...
Cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua cũng một lần nữa cho thấy tính dễ biến động của dòng chảy vốn quốc tế, đặc biệt dễ gây tổn thương cho các thị trường mới nổi. Để đối phó, các nhà hoạch định chính sách đã phải thiết lập ra hàng loạt các công cụ, từ kiểm soát vốn tới các biện pháp bảo đảm an toàn vĩ mô nhằm định hình dòng chảy vốn và sẵn sàng can thiệp vào thị trường ngoại hối.
Nhưng vấn đề đặt ra là chúng ta đã rút ra được những bài học gì?; Liệu những công cụ đó có thực sự phát huy tác dụng?; Hơn nữa, khi các biện pháp như vậy được sử dụng, làm sao để chúng ăn khớp và không mâu thuẫn với tổng thể các chính sách và bộ công cụ vĩ mô khác của mỗi nền kinh tế cũng như giữa các nền kinh tế với nhau? Đây chính là những vấn đề sẽ được đặt ra và phần nào sẽ tìm được câu trả lời tại hội nghị tới.