Lựa chọn đối tác chiến lược nước ngoài: Ưu tiên giá hay năng lực?!
Tìm mục tiêu ưu tiên
Một chuyên gia trong ngành cho rằng, có 2 tiêu chí để ngân hàng chọn đối tác chiến lược là mức giá cổ phiếu được trả và năng lực của đối tác, trong đó uy tín và năng lực của đối tác phải được xem là vị trí ưu tiên số một thay vì yếu tố giá cả. Bởi lẽ, vấn đề quan trọng nhất khi một ngân hàng lựa chọn đối tác chiến lược xuất phát từ chính các kỳ vọng cần hỗ trợ. Dù cổ phiếu thỏa thuận bán cho NĐT chiến lược có thể cao hơn và thặng dư vốn thu về có thể lớn hơn, nhưng đó chỉ là lợi ích ngắn hạn. Còn nhìn về dài hạn, chỉ khi mình lựa chọn đúng đối tác phù hợp, mới có thể giúp ngân hàng tạo ra lợi nhuận bền vững.
Đây có lẽ cũng là lý do khiến các NHTM Nhà nước khi cổ phần hóa rất ưu tiên cho việc lựa chọn đối tác chiến lược nước ngoài. Ví như VietinBank, sau khi chọn IFC, NĐT chiến lược nước ngoài tiếp theo mà VietinBank hướng đến phải là tổ chức ngân hàng lớn trên thế giới; có tình hình tài chính lành mạnh, xếp hạng tín nhiệm cao, có kinh nghiệm đầu tư thành công trên thế giới và khu vực châu Á. Hay như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), theo phương án cổ phần hóa đợt 1 đã được Chính phủ chấp thuận có đến 15% trong tổng số 22% tỷ lệ vốn bán ra ngoài được dành cho đối tác ngoại. Trong giai đoạn 2, BIDV sẽ phát hành thêm cổ phần cho NĐT chiến lược nước ngoài với tổng mức không vượt quá 20% vốn điều lệ và phát hành thêm cổ phần ra công chúng, giảm dần tỷ lệ sở hữu của Nhà nước xuống không thấp hơn 65% vốn điều lệ đến năm 2015. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hàng đầu được BIDV đặt ra là sẽ lựa chọn được một NĐT chiến lược nước ngoài là một định chế quốc tế có danh tiếng, cam kết dài hạn, hỗ trợ BIDV trong quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro tiên tiến, phát triển sản phẩm dịch vụ và áp dụng công nghệ hiện đại.
Tuy nhiên giá cũng là yếu tố quan trọng để thu hút các NĐT nước ngoài. Thế nhưng mọi mức giá đưa ra cao hay thấp khi bán cổ phần chỉ mang tính thời điểm. Mặc dù mức giá đấu thầu bình quân tại thời điểm IPO của BIDV là 18.000 đồng/CP và Chủ tịch HĐQT BIDV Trần Bắc Hà tuyên bố giá khởi điểm niêm yết của BIDV sẽ không thấp hơn 150% giá đấu thầu bình quân, song các chuyên gia cho rằng, nếu BIDV đề ra mức giá bán cho cổ đông chiến lược trên 30.000 đồng/CP thì cũng không thể dễ dàng. Bởi dùtheo công bố của BIDV, hiện có khoảng trên 30 NĐT đang quan tâm và muốn trở thành NĐT chiến lược của BIDV. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, việc các tổ chức quốc tế đang đánh giá rất khả quan về kinh tế Việt Nam không đủ xóa đi những lo lắng khi các tổ chức xếp hạng tín dụng lại chưa có cái nhìn tích cực. Điều này sẽ khiến các NĐT trở nên dè dặt. Hơn thế, nhìn lại TTCK trong năm 2011, giá cổ phiếu ngân hàng cũng khá phập phù. Ví như VietinBank được đánh giá là ngang bằng với BIDV, mức giá thấp nhất trong năm 2011 chỉ có 16.400 đồng/CP và sau 2 tháng nó đã tăng lên tới 25.200 đồng/CP. Câu chuyện vì kỳ vọng mức giá quá cao mà không tìm được NĐT chiến lược nước ngoài của Vietcombank càng minh chứng thêm vấn đề này.
Hiểu đích ngắm của NĐT chiến lược
Chuyên gia phân tích chứng khoán Hoàng Đình Kế cho biết, hiện các ngân hàng nước ngoài đang rất mong muốn đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, quy mô quá nhỏ bé của các NHTMCP Việt Nam đang khiến NĐT nước ngoài lưỡng lự. Chính vì vậy, NĐT nước ngoài không mặn mà với việc tham gia vào các ngân hàng nhỏ mà quay sang mua cổ phiếu của những NHTMCP Nhà nước và những NHTMCP lớn khác ngay cả khi giá của nó đắt hơn nhiều lần. Điều này cũng cho thấy những dòng vốn nước ngoài đang đổ dồn về phía các ngân hàng lớn.
Dự báo về sự thành công cho các tiến trình bán cổ phần cho đối tác chiến lược nước ngoài như BIDV, VietinBank, ông Kế cho rằng yếu tố tác động tiêu cực đến mức giá cổ phiếu của nhóm ngân hàng chỉ xảy ra trong trường hợp diễn biến chính trị của Việt Nam không tốt.
Điều quan trọng là các ngân hàng phải lựa chọn cho được một NĐT có uy tín, năng lực tài chính và khả năng hỗ trợ ngân hàng trong phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại; có lợi ích chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng không chỉ trong ngắn hạn, mà là lợi ích lâu dài. Đặc biệt, sau khi trở thành cổ đông chiến lược, các bên phải phối hợp, hoà hợp văn hoá, quản trị công ty để cùng nhìn vào những khía cạnh tích cực của cả hai bên, nhằm đạt được giá trị cộng hưởng tốt hơn.
Trần Hương