Một góc Quảng Trị trong tôi
Ký ức
Trong cuộc sống hàng ngày, có khi một tác phẩm văn học, nghệ thuật ám ảnh ta, rồi dắt dẫn ý nghĩ ta lang thang từ nơi này đến nơi khác, thậm chí dắt ta đến một hành động, một việc làm nào đó. Chuyến đi Quảng Trị vừa rồi của tôi minh chứng điều đó.
Di tích quốc gia Địa đạo Vịnh Mốc |
Buổi tối xem một bộ phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam do nhà làm phim nước ngoài dàn dựng, con sông Bến Hải phân chia Nam - Bắc, đạn bom cày xới không riêng một bờ nào, cột cờ giới tuyến còn đống gạch, sắt vụn… bộ phim nói về nhiều nơi, nhưng ám ảnh tôi chính vùng đất này.
Một câu thơ của nhà thơ nước ngoài đột ngột từ trí nhớ hiện lên: “Nước Việt Nam như một chiếc đàn bầu/Mà dây đàn đứt ngang sông Bến Hải”. Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 đã chọn vĩ tuyến 17 để chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam, nhát dao ấy đặt lên thân hình tỉnh Quảng Trị, ngay trên dòng Bến Hải vốn hiền hòa, thân thương. Quảng Trị là đứa con của đất nước gánh chịu nhiều nỗi đau nhất nước.
Là một vùng đất nghèo của miền Trung “gió Lào, cát trắng”, hạt cơm trộn hạt mồ hôi, nhát dao chia cắt đất nước lại chém xuống nơi này, cắt rời huyện Vĩnh Linh ra bờ Bắc, dưới chế độ chính trị đối lập với phần còn lại ở bờ Nam. Đó chính là nguyên nhân của bao tai ương, đau đớn. Nhát dao chia cắt đất nước ấy đặt lên nhiều gia đình Quảng Trị, chia lìa tình cảm máu thịt.
Và biết bao năm bom đạn chiến tranh đã biến vùng này thành chảo lửa. Chính quyền Việt Nam cộng hòa biến bờ Nam giới tuyến thành vùng đai trắng và bom đạn đổ ra bờ Bắc giết hại đồng bào Vĩnh Linh. Pháo giặc xây trận địa trên đất Quảng Trị để giết người Quảng Trị vì giới tuyến quân sự tạm thời đã trở thành chiến tuyến.
Cả một vũng Vĩnh Linh xác xơ không còn nhà cửa, cây cối. Người Vĩnh Linh phải chui vào lòng đất mà sống, mà chiến đấu, sản xuất. Địa đạo Vịnh Mốc là một bằng chứng hùng hồn. Ăn ở trong lòng địa đạo. Trẻ con sinh ra trong lòng địa đạo. Nhà trẻ trong lòng địa đạo…
Nhưng cũng có nhiều gia đình Vĩnh Linh sơ tán ra Nghệ An, Thanh Hóa. Người Tân Kỳ, một huyện miền núi của Nghệ An, nơi đã tiếp đón nhiều gia đình Vĩnh Linh, gần nửa thế kỷ trôi qua vẫn chưa hết lời ngợi ca ý chí của những người con vùng đất Quảng Trị này.
Vì nguyên nhân nào đó, có những đứa trẻ chỉ sáu, bảy tuổi không đi cùng gia đình, mà nhập theo đoàn sơ tán, chân đất, quần cộc, cổ đeo chai nước, ngày đêm bám đoàn, khi máy bay ném bom, bắn phá thì theo lệnh nằm xuống; xong trận lại đứng dậy, phủi đất đi tiếp.
Và nhiều em nhỏ đã bị bom Mỹ giết chết trong cuộc hành trình này. Người Tân Kỳ khen người Vĩnh Linh chịu khó siêng năng, trồng cây gì cũng tốt, biết chế biến nhiều món ăn từ quả mít non… và giàu lòng “tương thân tương ái”…
Bốn mươi hai năm đời lính, tôi đã có thời gắn bó với Quảng Trị. Đó là thời tôi công tác ở Cục quân báo, thuộc Bộ Tổng tham mưu. Nhiệm vụ của chúng tôi là nghiên cứu, khai thác mật mã địch, để nắm tin tức tình báo, một yếu tố hết sức quan trọng trong cuộc chiến tranh.
Cùng với một số đồng đội, năm 1967, tôi được giao trách nhiệm “nắm địch” trên vùng chiến thuật một, cụ thể là phải theo dõi hoạt động của hai sư đoàn bộ binh của chúng là F1 và F2 cùng các lực lượng địa phương khác.
Là tình báo kỹ thuật, muốn nắm được địch buộc chúng tôi phải giải mã những bức điện của chúng, khi trong tay mình chỉ có bản mã mà không có “khóa”. Mã thám là một công việc phức tạp, khó khăn, đòi hỏi rất nhiều thứ, nhưng với chúng tôi, những từ nào có nhiều khả năng xuất hiện trong bức điện luôn đặc biệt chú ý.
Thế là buộc chúng tôi phải thuộc lòng địa danh mà hai sư đoàn bộ binh này thường đề cập, trước hết là tên các huyện… Thế là tôi đã làm ca dao ghép tên các địa phương của Quảng Trị cho anh em dễ nhớ và non nửa thế kỷ rồi những địa danh của Quảng Trị vẫn còn in đậm trong tôi:
Gio Linh, Cam Lộ, Ba Lòng
Hải Lăng, Hương Hóa, Triệu Phong, Đông Hà
Trung Lương kể cũng không xa
La Vang khu ấy cũng là quê em…
Và nhiều bức điện quan trọng của quân địch đã được chúng tôi thám dịch, phục vụ cho các trận đánh của quân ta trên mặt trận này.
Ngày 1/5/1972 Quảng Trị hoàn toàn giải phóng. Nhưng sau đó không lâu, quân địch đã tràn ra chiếm lại thành cổ và vùng đất phía Nam sông Thạch Hãn. Sông Thạch Hãn trở thành chiến tuyến, Quảng Trị chịu thêm một nhát dao chia cắt, nhưng vùng đất giải phóng được mở rộng thêm mấy huyện Gio Linh, Cam Lô, Hướng Hóa, Triệu Phong…
Biểu tượng của sự chiến thắng là chiếc xe tăng Mỹ bị ta đánh hỏng nằm chúc nòng phía trên đường Chín, thuộc địa phận Cam Lộ. Văn nghệ sĩ miền Bắc thời đó đi thực tế vùng “mới giải phóng” vào Quảng Trị thường leo lên chiếc xe tăng này chụp ảnh kỷ niệm và Tuần báo Văn nghệ đã nhiều lần đăng những tấm ảnh như thế.
Vui đấy, nhưng niềm vui chưa trọn vẹn, thậm chí có người còn nhiều nghĩ ngợi. Nhà văn Nguyễn Tuân sau khi vào thăm vùng giải phóng Quảng Trị về nói chuyện với học viên khóa 5 lớp bồi dưỡng sáng tác của Hội Nhà văn rằng, gần hai mươi năm chiến đấu ta mới đẩy giới tuyến chia cắt từ Bến Hải vào Thạch Hãn, nghĩa là chỉ đi được chừng ba mươi cây số, thế thì biết khi nào mới giải phóng toàn bộ miền Nam? Nỗi niềm ấy không chỉ riêng của nhà văn Nguyễn Tuân sau “mùa hè đỏ lửa”, vì khi ấy không mấy ai nghĩ được, chỉ ba năm sau ta giải phóng hoàn toàn miền Nam!.
Học xong lớp bồi dưỡng sáng tác của Hội Nhà văn, tôi xin đi thực tế Quảng Trị vào mùa hè năm 1973. Ngồi trên thùng xe “Zin ba cầu” qua vùng đất Vĩnh Linh còn loang lổ hố bom, khi xe nghiến bánh qua cầu Hiền Lương nham nhở vết đạn, thấy tận mắt sông hẹp, cầu ngắn… lòng thêm nhói nỗi đau chia cắt gần hai chục năm trời. Từ Đông Hà, tôi đi ngược đường Chín gặp lại bao địa danh từng ghi dấu chiến công: sông Hiếu, Ba Lòng, Đầu Mầu, Khe Sanh, Làng Vây… Sau một ngày lao động, lính ta bơi tắm trên dòng suối La La, miệng hát bài “Suối La La” của nhạc sĩ Huy Thục: “Ơi con suối La La, nước trong xanh hiền hòa…”.
Mùa xuân năm 1975, tôi cùng hai nhà thơ, nhà báo Duy Khán và Gia Dũng tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Duyên cớ thế nào, Quảng Trị lại đón và giữ chúng tôi mấy ngày ở trạm giao liên bên dòng suối La La.
Không có lán trại, chúng tôi mắc võng vào cột lán không còn mái để nghỉ qua đêm, còn cơm thì không phải tự nấu bẳng hăng - gô của mình mà đã có các cô giao liên người Quảng Trị, Nghệ An… nấu chung cùng trạm. Tiếng con gái Quảng Trị nhỏ nhẹ mà ân tình đã không chỉ nuôi chúng tôi những ngày ở binh trạm, mà theo chúng tôi vào tận Sài Gòn kịp ngày lịch sử trọng đại 30 tháng Tư…
Hương khói nghĩa trang
Có người nói rằng Quảng Trị là bàn thờ của Tổ quốc, kể ra cũng có phần đúng. Trong cuộc chiến tranh dai dẳng của dân tộc, nhiều địa phương hứng chịu bom đạn, nhưng không ở đâu ác liệt như Quảng Trị. Gạch thành bụi, đá thành vôi và biết bao người đã từ giã cuộc đời giữa tuổi thanh xuân. Không chỉ là người của Quảng Trị, mà là người của cả nước, nhất là các tỉnh miền bắc.
Làng Đông Bích bé nhỏ của tôi thuộc tỉnh Nghệ An đã có hơn chục người con nằm lại đất này. Mỗi lần nói về vùng đất Quảng Trị là người làng nhắc lại bảy thanh niên cùng nhập ngũ một đợt vào đầu năm 1972. Bảy thanh niên tuổi mười bảy, mười tám nhưng sinh ra trong nghèo khổ, người bé nhỏ, mặc quân phục đũng quần sa đến đầu gối, hành quân mà còn tị nạnh nhau như lúc chăn trâu…
Chỉ mấy tháng sau, cả bảy thanh niên ấy đều hy sinh trên đất Quảng Trị nhưng sau ngày đất nước thống nhất mới có giấy báo tử và không ai trong họ để lại nơi chôn cất hoặc phần mộ. Xương thịt đã tan vào trong lòng đất Quảng Trị. Phần lớn liệt sĩ ở đây đã từng vượt Bến Hải, vào Trường Sơn chiến đấu và đã hy sinh. Khu mộ được xếp theo tên từng tỉnh để cho thân nhân dễ tìm.
Tôi nhẹ chân đứng trước từng ngôi mộ, mười liệt sĩ của làng tôi không ai có tên trong khu mộ của người Nghệ Tĩnh, chẳng biết có ai nằm trong khu mộ chưa tìm ra tên người hy sinh, hay là đã tan vào đất Quảng Trị? Biết tìm các em ở đâu ơi Lân, ơi Ngọc, ơi Hậu, ơi Long, ơi Quỳ… Trong khói hương này có lòng anh tưởng nhớ, dù các em đang ở đâu!
Tôi cúi xuống đọc những gì ghi trên mộ chí mới nhận ra rằng, trong tấm bia bé nhỏ này, quê hương và chiến trường đã xích gần lại sát nhau, ngày sinh và ngày hy sinh gần nhau đến thế. Thông thường tuổi trẻ là một phần của cuộc đời, với phần lớn liệt sĩ chúng ta, cuộc đời chỉ là một phần của tuổi trẻ!
Trong lòng tượng đài trung tâm thành cổ hôm nay có đặt một chiếc ba lô của người lính. Phía trong ba lô chắc quần áo, phía ngoài người xem có thể nhìn thấy một khẩu súng, một bao gạo, một cái xẻng, một bi đông… Gia tài người lính chỉ có thế. Chỉ có thế thôi trong cả đời lính cho đến ngày hy sinh để gìn giữ cả giang sơn gấm vóc.
Sát với khu thành cổ, bên bờ sông Thạch Hãn có một công trình xây dựng mang tên bến Thả Hoa. Ở đây, người dân thường xuống bến để thả hoa tưởng nhớ những liệt sĩ hy sinh trong dòng Thạch Hãn. Thời kỳ tranh chấp thành cổ, mỗi đêm lính ta phải bơi qua dòng Thạch Hãn để tiếp cận thành cổ và biết bao người lính đã từ giã cuộc đời bằng hai tiếng “Mẹ ơi” trước khi chìm, trôi theo dòng nước. Bởi thế mà bài thơ của Lê Bá Dương, một dũng sĩ nổi tiếng của thành cổ đã gây xúc động lòng người:
Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Trên bến Thả Hoa, người ta đã khắc bài thơ tứ tuyệt đó và biết bao người đã gạt lệ khi đọc bài thơ trên bến sông này.