Phải cải cách hệ thống pháp lý
Tái cơ cấu NH đã thúc đẩy tái cấu trúc thị trường tài chính
Đề án tái cơ cấu hệ thống TCTD giai đoạn 2011 – 2015 (Đề án 254) có 4 nội dung chủ yếu. Đó là củng cố và ổn định thanh khoản của các NHTM gắn liền với việc xử lý các NH yếu kém; xử lý nợ xấu và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM; Giải quyết dứt điểm sở hữu chéo, lũng đoạn trong hệ thống NH; Đưa vào áp dụng các chuẩn mực an toàn, chuẩn mực kế toán, quản trị theo thông lệ quốc tế.
Cho đến thời điểm này, sau gần 4 năm thực hiện tái cơ cấu, hệ thống NH đã đạt được kết quả khả quan. Thứ nhất, thanh khoản của các NHTM được củng cố, với sự hỗ trợ đắc lực của chính sách tiền tệ nói chung, hệ thống thanh tra giám sát nói riêng đã tạo lòng tin đối với người gửi tiền.
Sau 4 năm thực hiện tái cơ cấu hệ thống NH đã đạt được nhiều kết quả khả quan |
Có thể thấy, mặc dù lãi suất tiền gửi liên tục giảm theo đà giảm của lạm phát, nhưng cho đến nay, tốc độ tăng trưởng tiền gửi khá cao, khoảng 16%/năm, cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Tiền gửi trung, dài hạn cũng gia tăng, đường cong lãi suất đã xuất hiện với xu hướng đi lên phù hợp với cấu trúc kỳ hạn và rủi ro thay vì nằm ngang thậm chí đi xuống. Điều này cho thấy thị trường tiền tệ đã trở lại tình trạng bình thường sau nhiều năm biến động.
Tuy nhiên, cũng cần phải thừa nhận rằng thị trường trái phiếu Chính phủ, tín phiếu NHTW phát triển rất nhanh trong thời gian gần đây đã hỗ trợ đắc lực cho các NHTM cả về thanh khoản lẫn nền tảng tài chính trong bối cảnh tổng cầu suy giảm mạnh và tín dụng không tăng trưởng được. Với hàng triệu tỷ trái phiếu Chính phủ đang còn hạn và tín phiếu NHTW (kể cả đáo hạn và chưa đáo hạn) được giao dịch, chiếm xấp xỉ 50% tổng tiền gửi của hệ thống NH. Đây là một nguồn hỗ trợ quan trọng để cải thiện và lành mạnh hoá tài chính của hệ thống NH trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng thấp.
Vấn đề thứ hai là xử lý nợ xấu. Đây thường là vấn đề khó khăn nhất của tiến trình tái cấu trúc hệ thống NH. Tỷ lệ nợ xấu năm 2011 theo ước tính của tôi vào khoảng 15%. Cho đến nay, con số này đã giảm xuống chỉ còn khoảng 5%. Mặc dù, theo báo cáo của các NHTM nợ xấu đến hết tháng 11 chỉ còn 3,87%. Nhưng, dù con số nào, 5% hay 3,87%, cũng thể hiện một nỗ lực rất lớn của ngành NH trong xử lý nợ xấu. Với sự hỗ trợ của hàng loạt các giải pháp của NHTW, đặc biệt, những giải pháp về cơ cấu lại nợ, kiểm soát cho vay bất động sản và chứng khoán, ngăn chặn tình trạng cho vay nội bộ, cho vay người có liên quan đã giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng trong toàn hệ thống.
Song song với các giải pháp trên, NHNN đã cho ra đời Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) như là một định chế tài chính xử lý nợ tập trung và đã đạt được những kết quả nhất định. Số nợ xấu VAMC mua trong năm 2014 khoảng 123 nghìn tỷ đồng, tập trung vào một số NH có tỷ lệ nợ xấu cao và đặc biệt những NH yếu kém là trọng tâm của chương trình tái cấu trúc.
Điều này đã hỗ trợ cho các NHTM giảm nhanh tỷ lệ nợ xấu trong bối cảnh thị trường tài sản, đặc biệt thị trường bất động sản bị đóng băng và thị trường mua bán nợ chưa phát triển. Mặc dù, việc bán nợ của VAMC còn gặp nhiều trở ngại về mặt pháp lý và hạ tầng tài chính của thị trường mua bán nợ. Tuy nhiên, việc “nhốt” nợ tại VAMC cũng có tác dụng lành mạnh hoá tài chính và các chỉ tiêu an toàn cho các NHTM.
NHNN đã mạnh tay, nhưng chưa đủ
Việc xử lý nợ xấu vẫn tiếp tục là một thách thức lớn đối với hệ thống NH khi mà các biện pháp tái cơ cấu theo Quyết định 780 hết hiệu lực và đồng thời Thông tư 02 bắt đầu có hiệu lực. Điều này đòi hỏi không chỉ hệ thống NH mà cơ quan hoạch định chính sách cần tạo những điều kiện thuận lợi hơn về mặt pháp lý và nguồn lực để VAMC, các NHTM giải quyết nhanh chóng nợ xấu theo những chuẩn mực về hạch toán nợ cao hơn hoặc ít nhất bằng chuẩn mực áp dụng trong khu vực Đông Nam Á.
Với khá nhiều rào cản như vậy, công việc xử lý nợ xấu khó có thể kết thúc trong năm 2015 như mục tiêu của đề án. Bởi vì nó còn lệ thuộc vào hàng loạt cải cách về pháp lý, quản trị rủi ro, quản trị DN và xử lý sở hữu chéo, lũng đoạn trong hệ thống NH.
Vấn đề thứ ba là xử lý sở hữu chéo. Việc xử lý sở hữu chéo, lũng đoạn cũng đã có những tiến bộ bước đầu. Những biện pháp đã thực hiện trong vài năm gần đây như kiểm soát chặt chẽ quan hệ sở hữu, cho vay người có liên quan, cho vay với mục đích đầu cơ, cộng với những vụ án hình sự lớn đang được điều tra và xử lý đã gióng lên tiếng chuông cảnh báo về việc Chính phủ và NHNN sẽ dứt khoát loại bỏ sở hữu chéo và lợi dụng NH để cho vay sân sau, ra khỏi hệ thống tài chính.
Đây là một cuộc đấu tranh gian nan. Vì nó gắn liền với các nhóm lợi ích và không thể một sớm một chiều xử lý được. Song NHNN đã có một bước đột phá trong lĩnh vực này là ban hành Thông tư 36 (bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/2/2015) với những quy định chi tiết, minh bạch về quan hệ sở hữu, cho vay đối với người và tổ chức có liên quan.
Nếu thực hiện tốt Thông tư 36 thì triển vọng lần đầu tiên hệ thống NH Việt Nam chấm dứt được tình trạng sở hữu chéo và cho vay sân sau đã kéo dài hơn hai chục năm qua (1994) sẽ thành hiện thực. Vì đây chính là nguyên nhân chủ yếu gây ra khủng hoảng cho đến nay trong hệ thống NH Việt Nam. Nếu giải quyết được vấn đề này sẽ tạo ra tiền đề quan trọng cho việc áp dụng các chuẩn mực an toàn mới, chuẩn mực quản trị mới trong tương lai.
Vấn đề cuối cùng trong thực hiện Đề án 254 là áp dụng chuẩn mực quản trị, quản lý rủi ro, chuẩn mực kế toán và báo cáo tài chính, chỉ tiêu an toàn hệ thống tiệm cận với thông lệ quốc tế. Trên thực tế, hệ thống NH đã từng có quy định theo hướng này và đã được chấp thuận ở cấp rất cao như Kết luận 39 của Bộ Chính trị và Quyết định 112 của Chính phủ năm 2006. Tuy nhiên, các quy định này với nhiều lý do đã không được thực hiện.
Vì vậy, mặc dù NHNN đã có những chuẩn bị và trên thực tế đã có những quy định theo hướng áp dụng các thông lệ mới, nhưng hiệu lực thực hiện của nó tuỳ thuộc rất lớn vào việc giải quyết các cấu phần tái cấu trúc trước đó như nợ xấu, xử lý NH yếu kém, thiết lập kỷ luật thị trường và đặc biệt là tăng cường tính độc lập, hiệu lực pháp luật của cơ quan thanh tra giám sát.
Trong số các chuẩn mực quốc tế cần phải được áp dụng thì quan trọng nhất là chuẩn mực kế toán và báo cáo tài chính cộng với chuẩn mực an toàn hệ thống. Đây là những yêu cầu cấp bách để làm rõ vấn đề hệ thống NH đang ở đâu, sức khoẻ thế nào, có khả năng duy trì lâu dài lòng tin của thị trường và ổn định kinh tế vĩ mô hay không.
Ví dụ, nợ xấu tính theo chuẩn kế toán Việt Nam, theo chất lượng minh bạch hoá của Việt Nam vào khoảng 3,87% nhưng trên thực tế, nếu tính theo chuẩn kế toán quốc tế và mức độ minh bạch hoá theo Basel có thể sẽ rất cao. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách của NHNN cần phải hết sức lưu ý. Nhất là khi Việt Nam hội nhập sâu rộng vào hệ thống thương mại tài chính quốc tế. Sự yếu kém của hệ thống NH cũng khiến cho nền kinh tế dễ bị tổn thương trước bất cứ một biến động tài chính nào trên thế giới.
Tóm lại, chúng ta không thể nào tái cấu trúc nền kinh tế, tái cấu trúc hệ thống NH mà chỉ dựa trên hệ thống pháp lý và hệ thống quản trị hiện hành. Đấy là điều không tưởng. Muốn tái cơ cấu hệ thống NH thành công đòi hỏi phải có những cải cách pháp lý sâu rộng gắn liền với các cấu phần khác của toàn bộ chương trình tái cấu trúc nền kinh tế như tái cấu trúc DNNN, tái cấu trúc đầu tư công, tái cơ cấu nông nghiệp, cải cách hành chính...
Đây là điều khiến cho nhiều chuyên gia phân tích vẫn còn lo ngại về khả năng thành công như mong đợi của chương trình tái cơ cấu. Đặc biệt là việc cải cách thể chế kinh tế, đơn giản hoá thủ tục pháp lý và minh bạch hoá hệ thống tài chính và kỷ luật thị trường là những yêu cầu tối thiểu để cho chương trình tái cấu trúc hệ thống NH cũng như tái cấu trúc nền kinh tế thành công.
Cải cách thể chế kinh tế, đơn giản hoá thủ tục pháp lý, minh bạch hoá hệ thống tài chính và kỷ luật thị trường là những yêu cầu tối thiểu để cho chương tình tái cấu trúc hệ thống NH cũng như tái cấu trúc nền kinh tế thành công. |