Phát huy tối đa các thế mạnh vùng
Tín dụng ngân hàng: Đồng hành và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL |
Hiệu quả từ đồng vốn tín dụng
Theo số liệu từ Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN), kết quả cho vay nông nghiệp, nông thôn của khu vực đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) những năm gần đây liên tục tăng.
Đến 30/6/2016, dư nợ đạt khoảng 190.000 tỷ đồng, tăng 10,1% so với cuối năm 2015, chiếm tỷ trọng gần 22%/tổng dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn toàn quốc; và chiếm gần 48% tổng dư nợ cho vay của khu vực.
Nguồn vốn cho vay của NH tập trung vào các ngành như thủy sản, lương thực, chăn nuôi, rau quả... trong đó kết quả cho vay đối với một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của vùng như cho vay thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy sản ước đạt 55.000 tỷ đồng, tăng 4,31% so với 31/12/2015.
Cho vay đóng mới, nâng cấp tàu theo Nghị định số 67/2014/NĐ - CP ngày 07/7/2014 của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản 91 con tàu (đóng mới 78 tàu và nâng cấp 13 tàu) với số tiền cam kết cho vay gần 621 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt gần 469 tỷ đồng.
Đến hết tháng 6/2016, dư nợ cho vay nông thôn mới của khu vực ĐBSCL đạt khoảng 125.205 tỷ đồng |
Các NH đã triển khai chương trình cho vay thí điểm phục vụ phát triển nông nghiệp theo Nghị quyết số 14/NQ - CP của Chính phủ, tại khu vực ĐBSCL có 10 DN trong tổng số 28 DN trên toàn quốc được liên Bộ (NHNN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và Công nghệ) lựa chọn tham gia chương trình thí điểm để thực hiện 10 dự án, trong đó có 7 dự án liên kết cánh đồng lớn sản xuất và tiêu thụ lúa gạo; hai dự án có chuỗi liên kết sản xuất và xuất khẩu thủy sản; một dự án liên kết sản xuất rau an toàn, sản xuất liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp với số tiền các NH đã giải ngân cho vay đạt gần 5.424 tỷ đồng.
Sau hai năm triển khai chương trình, thông qua nguồn vốn tín dụng NH, các DN có điều kiện hoàn thiện các mô hình mẫu trong sản xuất nông nghiệp theo chuỗi liên kết, ứng dụng công nghệ cao, mang lại lợi nhuận cho cả hộ dân liên kết và DN.
Điển hình như mô hình đầu tư chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ rau màu Antesco của Công ty cổ phần Rau quả thực phẩm An Giang. Hay mô hình liên kết từ nuôi đến chế biến cá tra Tafishco của Công ty TNHH sản xuất thương mại dịch vụ Thuận An tỉnh An Giang. Với sự hỗ trợ của NH mô hình liên kết cánh đồng lớn của Công ty TNHH Trung An cũng rất thành công...
Số liệu thống kê cũng cho thấy, đến hết tháng 6/2016, dư nợ cho vay nông thôn mới của khu vực đạt khoảng 125.205 tỷ đồng, tăng khoảng 5% so với thời điểm cuối năm 2015. Số khách hàng còn dư nợ tại các TCTD tại thời điểm 31/12/2015 đạt hơn 2 triệu khách hàng, trong đó phần lớn khách hàng là các cá nhân, hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp.
Việc đẩy mạnh đầu tư tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn đã góp phần tích cực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, góp phần tạo ra diện mạo mới cho khu vực nông thôn vùng ĐBSCL... Cùng với các chương trình tín dụng ưu đãi, các NH cũng triển khai nhiều chương trình an sinh xã hội nhằm nâng cao đời sống, thu nhập của người dân.
Tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp
ĐBSCL là khu vực rộng lớn, ngoài vai trò là vựa lúa của cả nước, khu vực này còn có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế khác. Vì thế để phát huy tiềm năng, lợi thế của khu vực ĐBSCL, trong thời gian tới ngành NH tiếp tục triển khai tích cực các giải pháp tín dụng cho khu vực.
Để nguồn vốn tín dụng phát huy hiệu quả hơn nữa, các NHTM đề nghị cần phải có sự hỗ trợ từ các bộ, ngành, sự chủ động của địa phương.
Theo ông Lê Đức Thọ - Tổng giám đốc VietinBank, Chính phủ tiếp tục cân đối các nguồn lực để tập trung phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế và hạ tầng xã hội làm động lực để phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Đầu tư đồng bộ vào các khâu trong quá trình sản xuất thuộc các lĩnh vực là thế mạnh của vùng, như: sản xuất giống, sản xuất thức ăn chăn nuôi; chuyên nghiệp hơn trong nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản; công nghiệp chế biến; dịch vụ hậu cần cho sản xuất, chế biến và tiêu thụ hàng hóa... góp phần hình thành chuỗi sản xuất nông nghiệp có giá trị gia tăng cao.
Cần xây dựng và cụ thể hóa chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn dài hạn, quy hoạch, lập vùng chuyên canh cho nông nghiệp, phát triển vật nuôi, cây trồng theo quy trình khép kín từ khâu sản xuất kinh doanh, thu mua, chế biến, bảo quản, tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Bên cạnh vốn tín dụng NH, chúng ta cần quan tâm, dành nguồn vốn tài trợ ủy thác nước ngoài, ODA để ủy thác qua NHTM cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn với thời hạn tương đối dài, lãi suất phù hợp với đặc thù hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đồng thời đẩy mạnh quan hệ hợp tác đầu tư với các địa phương trong nước và quốc tế, mở rộng thị trường tiêu thụ, xuất khẩu hàng hóa cho vùng ĐBSCL, tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật để áp dụng vào thực tiễn sản xuất và đời sống của nhân dân. Tăng cường liên kết vùng, hợp tác nội vùng giữa các tỉnh, thành ĐBSCL, tiến tới liên kết các vùng kinh tế trọng điểm, liên kết trong khu vực và thế giới.
Ngoài nguồn vốn, các chuyên gia kinh tế cũng khuyến nghị, để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng ĐBSCL cần phải có những giải pháp mạnh, thiết thực hơn.
Trong ngắn hạn, rà soát, điều chỉnh quy hoạch các vùng tôm-lúa, lúa-màu, chuyên lúa nhằm thích ứng tốt với biến đổi khí hậu. Về trung hạn, cần xây dựng và ban hành một quy hoạch lâu dài sử dụng đất toàn vùng ĐBSCL, thống nhất cao giữa các ngành, các địa phương.
Đồng thời, rà soát và điều chỉnh đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng cho vùng nuôi tôm - lúa và tôm - màu tập trung như: đê bao, trạm bơm nước, hệ thống kênh mương cấp thoát, hệ thống đường điện.
Đặc biệt, khu vực ĐBSCL cũng cần thay đổi việc tổ chức sản xuất như rà soát, đánh giá và thành lập các tổ chức nông dân (tổ hợp tác, hợp tác xã) và tiến hành thực hiện các hỗ trợ kỹ thuật để nâng cao năng lực và trình độ quản lý của tổ hợp tác, hợp tác xã và năng lực của lực lượng sản xuất này ở các vùng tôm-lúa, lúa-màu và chuyên lúa.
Nghiên cứu xây dựng và thúc đẩy các hình thức chuỗi liên kết sản xuất lớn để nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tạo giá trị gia tăng cao cho sản phẩm, hàng hóa… Có như vậy đời sống kinh tế-xã hội của người dân vùng ĐBSCL mới ngày càng được nâng cao...
Ông Tiết Văn Thành, Thành viên HĐTV, Tổng giám đốc Agribank : Cần thêm chính sách hỗ trợ cho ĐBSCL Với vai trò là một NHTM Nhà nước, đi đầu trong lĩnh vực cho vay nông nghiệp nông thôn, Agribank luôn bám sát chủ trương của Đảng, Chính phủ và các bộ ngành từ Trung ương đến địa phương, của NHNN Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội. Agribank đã chỉ đạo các chi nhánh trong khu vực tập trung vốn cho vay nhiều chương trình trọng điểm như: mở rộng và ưu tiên cho vay các mô hình liên kết chuỗi giá trị gia tăng, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp; cho vay tạm trữ lúa gạo; tháo gỡ khó khăn đối với nuôi trồng, thu mua, chế biến, xuất khẩu thủy, hải sản... góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực ĐBSCL. Đến 31/5/2016, tổng dư nợ cấp tín dụng của Agribank đạt 694.300 tỷ đồng, riêng dư nợ khu vực ĐBSCL là 101.701 tỷ đồng, chiếm 14,6% tổng dư nợ cấp tín dụng toàn hệ thống. Trong thời gian tới, Agribank ưu tiên vốn tín dụng cho các dự án đầu tư theo mô hình liên kết chuỗi giá trị gia tăng, ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp như: chuỗi liên kết giá trị chăn nuôi, cây trồng gắn với thu mua, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu theo quy trình khép kín. Bên cạnh đó, NH tiếp tục có chính sách ưu đãi về lãi suất, đơn giản hóa thủ tục vay vốn nhưng vẫn đảm bảo an toàn vốn vay. NH cấp tín dụng một phần không có bảo đảm bằng tài sản trên cơ sở xác định được dòng tiền của phương án, dự án... Tuy nhiên, để đầu tư tín dụng tại khu vực ĐBSCL hiệu quả hơn, tôi đề nghị, Chính phủ chỉ đạo bộ, ngành liên quan nghiên cứu cấp giấy chứng nhận tài sản là nhà kính, nhà lưới, nhà bạt, ao nuôi trồng thủy sản... trên đất nông nghiệp để tạo điều kiện cho các DN, người dân dùng làm tài sản bảo đảm khi vay vốn NH. Đối với các khoản nợ vay theo Nghị định 41/2010/NĐ - CP, Nghị định 55/2015/NĐ - CP của Chính phủ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ một lần theo quy định tại Thông tư số 10/2015/NHNN. Nhưng nay khách hàng tiếp tục bị thiệt hại do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, nếu NH thực hiện biện pháp hỗ trợ tiếp tục cơ cấu lại thời hạn trả nợ thì bị chuyển sang nợ xấu theo quy định tại Thông tư số 02. Và những khoản cho vay mới đối với những khách hàng bị thiệt hại dù có phương án sản xuất kinh doanh mới, nhưng sau khi giải ngân cũng phân loại vào cùng nhóm nợ có mức rủi ro cao nhất. Để thực hiện tốt Nghị định 55, Agribank kính đề nghị Thống đốc NHNN cho phép Agribank khi thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi được giữ nguyên nhóm nợ, kể cả việc cơ cấu lại nợ lần hai do nguyên nhân khách quan. Đối với chính quyền địa phương các cấp khu vực ĐBSCL, tôi đề nghị đẩy mạnh công tác quy hoạch theo Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Hỗ trợ NHTM trong việc đôn đốc, xử lý các khoản nợ xấu để không ảnh hưởng đến các khách hàng hoạt động tốt trong chuỗi cũng như giảm thiểu rủi ro, tạo động lực cho cán bộ NH trong công tác xử lý thu hồi nợ… ThS. Trần Lục Lang, Phó tổng giám đốc BIDV : Tập trung nguồn vốn phát huy thế mạnh vùng Các chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn của BIDV tập trung vào ba lĩnh vực lớn là: Chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp, nông thôn; chính sách hỗ trợ, giảm tổn thất trong nông nghiệp; và các chương trình, các gói tín dụng ưu đãi phát triển một số ngành nghề trọng điểm trong nông nghiệp nói chung và ĐBSCL nói riêng. BIDV cũng không ngừng cải tiến, tinh giản thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xem xét, quyết định cho vay đối với hộ nông dân, hộ sản xuất ở khu vực nông thôn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn vay NH. Đặc biệt, BIDV cũng đã thực hiện áp dụng lãi suất cho vay phù hợp đối với khách hàng vay vốn trong lĩnh vực tam nông; phát triển các sản phẩm tín dụng nhằm tạo chuỗi liên kết từ sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm; triển khai các chương trình cho vay hỗ trợ DN, đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu và nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, BIDV cũng ban hành một số sản phẩm/gói sản phẩm tín dụng ưu đãi hỗ trợ lĩnh vực tam nông nói chung và gói tín dụng hỗ trợ ĐBSCL nói riêng như: Gói tín dụng 5.000 tỷ đồng cho vay thủy sản; 1.000 tỷ đồng cho vay thu mua lúa gạo, nông sản và kinh doanh vật tư nông nghiệp khu vực ĐBSCL… Dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn của BIDV liên tục tăng qua các năm với tốc độ tăng trưởng tín dụng cho lĩnh vực này bình quân là 35,88%. Tỷ trọng dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn tương đối ổn định và chiếm khoảng từ 13-16% tổng dư nợ cho vay (không bao gồm đầu tư trái phiếu DN). Trong đó, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn tại khu vực ĐBSCL chiếm tỷ trọng tương đối lớn (trên 23%) trong tổng dư nợ cho vay NNNT của BIDV. Thời gian tới, BIDV sẽ tiếp tục triển khai tích cực các giải pháp tín dụng, chính sách hỗ trợ cho sự phát triển các ngành, lĩnh vực và kinh tế - xã hội của khu vực ĐBSCL. Chúng tôi sẽ tập trung nguồn vốn cho các lĩnh vực đặc thù nhằm phát huy các thế mạnh của vùng, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng khu vực theo hướng phát triển chiều sâu; Tổ chức, triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, gắn liền với thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới tại khu vực ĐBSCL. Chúng tôi sẽ xây dựng các chính sách và chương trình tín dụng cụ thể, trong đó có cả đầu tư phát triển lĩnh vực du lịch xanh; đồng thời tiếp tục hỗ trợ tín dụng đối với các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, dự án công trình trọng điểm nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng nhu cầu sản xuất, giao thương và đời sống nhân dân vùng ĐBSCL. Cùng với đó BIDV tiếp tục mở rộng, thực hiện có hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách và an sinh xã hội, từng bước nâng cao đời sống của người dân khu vực ĐBSCL. Ông Võ Minh Hiệp, Phó tổng giám đốc NHCSXH : Tín dụng chính sách góp phần xóa đói, giảm nghèo Tính đến 31/5/2016, tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội tại vùng ĐBSCL đạt hơn 26.000 tỷ đồng, với hơn 1,6 triệu hộ còn dư nợ, chiếm tỷ trọng 17,6% so với tổng dư nợ tín dụng chính sách trên cả nước. Nhìn chung, vốn tín dụng chính sách xã hội đã đến đúng các đối tượng thụ hưởng ở tất cả các ấp, khu phố trong vùng ĐBSCL, góp phần giúp 58.069 hộ thoát nghèo, thu hút 16.819 lao động có việc làm; 104.941 học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn. Vốn từ NHCSXH cũng đã hỗ trợ xây dựng được 742 ngàn công trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; trên 150 ngàn căn nhà cho hộ nghèo và các hộ gia đình chính sách; hơn 4,6 ngàn lao động thuộc gia đình chính sách được vay vốn đi làm việc ở nước ngoài... Với những kết quả nêu trên, tín dụng chính sách xã hội đã góp phần tích cực thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo và góp phần ổn định chính trị - xã hội tại vùng ĐBSCL. Đạt được kết quả như vậy là do NHCSXH đã tập trung huy động được các nguồn lực tài chính để tạo lập nguồn vốn và tổ chức thực hiện hiệu quả các chương trình tín dụng chính sách, chất lượng tín dụng không ngừng được cải thiện. Để đồng vốn chính sách hiệu quả hơn, chúng tôi đề xuất, kiến nghị một số nội dung: Thứ nhất, đề nghị Chính phủ giao kế hoạch tăng trưởng hàng năm theo mục tiêu chiến lược phát triển NHCSXH giai đoạn 2011-2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt bình quân khoảng 10%/năm (tăng trưởng tín dụng) để NHCSXH triển khai thực hiện các chương trình tín dụng chính sách, trong đó có khu vực ĐBSCL. Thứ hai, đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho bổ sung thực hiện chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường đối với các thị trấn, phường tại khu vực ĐBSCL để giải quyết tình trạng thiếu nước sạch sinh hoạt cho bà con, khắc phục tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn như vừa qua. Thứ ba, đề nghị Ban chỉ đạo Tây Nam bộ tiếp tục quan tâm chỉ đạo, phối hợp với NHCSXH và các tỉnh, thành phố trong khu vực ĐBSCL tổ chức khảo sát đánh giá kết quả thực hiện mục tiêu giảm nghèo giai đoạn 2011 - 2015 để có kế hoạch, giải pháp triển khai thực hiện tốt hơn cho giai đoạn 2016 - 2020. Thứ tư, đề nghị cấp ủy, chính quyền địa phương tăng cường chỉ đạo, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị số 40 - CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 401/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc bố trí nguồn lực từ ngân sách địa phương và các nguồn vốn hợp pháp khác hàng năm ủy thác sang NHCSXH để bổ sung nguồn vốn, tập trung thực hiện cho vay một số chương trình tín dụng chính sách. Chỉ đạo thường xuyên việc điều tra, rà soát, thống kê xác nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách khác để tạo điều kiện cho các đối tượng này được kịp thời vay vốn tín dụng chính sách từ NHCSXH. |